Thời Hai Bà Trưng địa giới nước ta như
thế nào thì sử ta lâu nay viết mù mờ, thậm chí viết sai. Nước ta có sử bắt đầu
từ giữa triều nhà Lý, thế kỷ XI, XII, nên mọi chuyện xảy ra trước đó cả ngàn
năm, người viết sử nước ta chỉ biết dựa vào sử Tàu. Mà ngày nay ta đã biết, sử
Tàu chỉ tập trung viết về họ, còn đối với các lân bang mà họ cho là man di mọi
rợ thì họ viết đại khái. Chủ yếu sử Tàu đứng trên quan điểm nước họ, viết những
gì có lợi cho họ, bỏ qua rất nhiều những gì không có lợi cho họ. Sử Tàu viết về
các nước nhỏ lân bang rất thiếu sót mà đặc biệt là uốn nắn sao cho có lợi cho
họ nhất, bỏ qua nhiều sự thật lịch sử. Các khuôn mặt sử gia kinh điền nước ta
như Lê Văn Hưu, Phan Phù Tiên, Ngô Sĩ Liên, Lê Quý Đôn... cũng không thoát được
“kiểu viết sử bá quyền” trong
sử Tàu. Vì thế, sử Tàu đã bỏ qua nhiều sự kiện trọng yếu liên quan đến nước ta
và có quá nhiều điều không đúng sự thật về nước ta. Các sử gia của ta chép lại
nguyên xi sử Tàu viết về nước ta thì phải soát xét lại, đối chiếu với tư liệu
dân gian, tư liệu khảo cổ học cận hiện đại để làm bật ra sự thật lịch sử của
nước ta như nước Nhật đã làm.
Chúng tôi khẳng định rằng, nước ta thời
Hai Bà Trưng rất khác với những gì mà sử Tàu và sử ta đã viết. Nước ta thời ấy
bao gồm bốn quận là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, bao gồm miền đất
từ tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc đến núi Thạch Bi, ranh giới hai tỉnh Phú Yên và
Khánh Hòa hiện nay.
Một ngàn năm bị Bắc thuộc là một thời kỳ
rất dài trong lịch sử nước ta. Thời kỳ lâu dài ấy, nước ta chưa có sử viết, chỉ
có sử Tàu viết. Tất nhiên không thể tin hết những gì mà sử Tàu viết về nước ta,
nhưng bằng cách vận dụng nhiều nguồn tư liệu khác nhau, làm cuộc so sánh đối
chiếu thì trong mớ bòng bong đầy mâu thuẫn của sử Tàu viết về nước ta, chúng ta
có thể phục hiện bức tranh lịch sử nước ta gần với sự thật hơn cả.
Nhà Hán đánh chiếm nước Nam Việt của nhà
Triệu, rồi chia nước Nam Việt ra làm 9 quận trực trị, trong đó có 4 quận thuộc
nước Âu Lạc của An Dương Vương là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Khi vừa giành được độc lập, thời Ngô,
Đinh, nước ta bị mất hơn hai quận, chỉ còn một quận là Giao Chỉ và khoảng
một nửa quận Cửu Chân, tức mất hơn một nửa nước thời vua An Dương Vương và Hai
Bà Trưng.
Nước Đại Cồ Việt thời Nhà Đinh, chỉ còn
bao gồm Đồng bằng sông Hồng và khoảng một nửa miền Bắc Trung Bộ, Khi ấy, quận
Hợp Phố [1] ở phía Đông Bắc đã thuộc Trung Hoa (nhà Nam Hán), Hai Bà Trưng
đã lấy lại toàn bộ nước ta thời vua An Dương vương, trong đó có quận Hợp Phố và
phần đất phía Nam, để rồi sáu đó lại bị mất theo triều đại của Hai Bà. Quận Hợp
Phố bị mất vĩnh viễn từ đó. Hiện vẫn còn đền thờ Hai Bà Trưng trên địa bàn quận
Hợp Phố ngày xưa, nay thuộc tỉnh Quảng Tây.
Nước Đông Ngô thời Tam Quốc bố trí Giao
Châu gồm bốn quận là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam . Tất nhiên, khi phân chia quận, chính quyền cai trị
phải căn cứ vào hai yếu tố là diện tích và dân số, phải làm sao cho không quá
chênh lệch nhau về diện tích và dân số giữa các quận.
Sách ”Hán
thư” đã ghi tỉ mỉ như sau:
QUẬN GIAO CHỈ
Quận Giao Chỉ, năm thứ 6 niên hiệu Nguyên
Đỉnh thời Hán Vũ đế mới có tên này. Có 92.440 hộ, 76.237 khẩu. Gồm 10 huyện: Luy Lâu (có
ải Tu Quan), An Định, Cẩu Lậu, Mi lãnh (theo chế độ Đô úy trị), Khúc
Dương, Thử Đới, Kê Từ, Tây Ư, Long Biên, Chu Diên].
QUẬN HỢP PHỐ
Quận Hợp Phố, năm thứ 6 niên hiệu Nguyên
Đỉnh thời Hán Vũ đế mới có tên này. Thời Vương Mãng gọi là Hoàn Hợp thuộc Giao
Châu. Có 15.398. hộ, 78.980 khẩu. Gồm
5 huyện: Từ Văn (Cao Lương), Hợp Phố (có ải, thời Vương Mãng gọi là Hoàn Đình),
Lâm Duẫn (theo đường thủy về hướng bắc vào Cao Yếu qua khỏi quận ba dặm, đi
tiếp 530 dặm, thời Vương Mãng gọi là Đại Duẫn), Chu Lô (theo chế độ Đô úy trị).
QUẬN CỬU CHÂN
Quận Cửu Chân, năm thứ 6 niên hiệu Nguyên
Đỉnh thời Hán Vũ đế mới có tên này. Có 52 dòng sông nhỏ, chu vi 8.560 dặm. Có 35.743 hộ, 166.113 khẩu, có
ải Giới Quan, gồm 7 huyện: Tư Phố (thời Vương Mãng gọi là V thành), Cư Phong,
Đô Bàng, Dư Phát, Hàm V, Vô Thiết (theo chế độ Đô úy trị), Vô Biên (thời Vương
Mãng gọi là Cửu Chân đình).
QUẬN NHẬT NAM
Quận Nhật Nam, thời Tần thuộc Tượng Quận
đến năm thứ 6 niên hiệu Nguyên Đỉnh thời Hán Vũ đế mới có tên Nhật Nam, có 16
dòng sông, chu vi 3.180 dặm,
thuộc Giao Châu. Có 15.460 hộ.
69.485 khẩu, gồm 5 huyện: Chu Ngô, Tỷ Cảnh, Lô Dung, Tây
Quyển (các con sông đều chảy ra biển, có loại cây trúc có thể dùng làm gậy,
thời Vương Mãng gọi là Nhật Nam đình), Tượng Lâm.
Chú ý là trong khi quận Giao Chỉ (đồng
bằng sông Hồng) có trên 72.000 khẩu, thì quận Cửu Chân có trên 166.000 khẩu và
quận Nhật Nam có trên 69.000 khẩu. Quận Nhật Nam có dân số gần bằng vùng Đồng
bằng sông Hồng, cón quận Cửu Chân thì dân số gấp đôi, tương đương hai quận Giao
Chỉ và Nhật Nam cộng lại. Từ đó thể suy đoán là diện tích hai quận Cửu Chân và
Nhật Nam
cộng lại phải lớn gấp ba vùng đồng bằng sông Hồng.
Sách ”Nam
sử” viết rằng Mã Viện sau khi bình định xong đội quân của Hai Bà
Trưng thì thành lập huyện Tượng Lâm rồi cho trồng hai trụ đồng để định ranh
giới đế quốc Hán. Mã Viện thành lập huyện Tượng Lâm tương tự như Nguyễn Hữu
Cảnh thời chúa Nguyễn Phúc Chu lập phủ Gia Định năm 1698. Ở đó, dân Việt đủ
đông, ruộng rẫy tề chỉnh, nơi ăn chốn ở đàng hoàng, quan lớn vi hành xem xét
thấy đủ tiêu chuẩn thì cho tiến hành tổ chức thành đơn vị hành chính để quản
lý.
Tổ chức đơn vị hành chính nơi miền biên
giới thì đồng thời cũng tiến hành xác đinh ranh giới của quốc gia.
Sách Nam sử viết:
“Bên kia biên giới phía nam nước Lâm Ấp,
theo đường bộ đường thủy hơn hai trăm dặm có vương quốc của người man di Tây
Đồ. Mã Viện trồng hai trụ đồng để định ranh giới của nhà Hán”.
o0o
Trong thời bị Bắc thuộc, phía Bắc nước ta
bị người Trung Hoa chiếm làm thuộc địa và ra sức đồng hóa. Dưới chế độ trực trị
của đế quốc Hán, Mã Viện báo lên vua Quang Vũ nhà Đông Hán:
“Mã
Viện còn tâu rằng Việt luật có hơn mười việc khác hẳn với Hán luật và Mã Viện
đã buộc người Việt từ bỏ chế độ xa xưa của họ. Từ đó, người Lạc Việt phải thực
thi theo Hán luật”.
(Hậu
Hán thư, tập thượng, tr. 561 bản chữ Hán)
Phía Nam nước ta trước cũng thuộc đế quốc
Trung Hoa, nhưng về sau bị vương quốc Chàm từng bước lấn chiếm đẩy dần ranh
giới giữa hai nước Việt - Chàm lên phía Bắc. Vương quốc Chàm đã chiếm hết quận
Nhật Nam và gần một nửa quận Cửu Chân của nước ta. Điều dễ hiểu là với đế quốc
Hán rộng lớn, trung tâm là Lạc Dương nay thuộc tỉnh Hà Nam, sát cạnh sông Hoàng
Hà, thì một quận như quận Nhật Nam thuộc vùng sâu vùng xa, hệ thống cai trị ở
huyện cuối về phía Nam của quận Nhật Nam là huyện Tượng Lâm tất nhiên là rất
lỏng lẻo và yếu kém. Trong khi đó, vương quốc Chàm lại đang sung sức, thừa dịp
nước ta bị xâm lược, bị tước quyền vũ trang, đã xua quân tiến hành lấn chiếm
một cách liên tục, có hệ thống.
Vương quốc Chàm gồm tất cả có 16 vương
triều. Ban đầu được hình thành ở miền Nam Trung Bộ
“Ở
phía Nam, vào năm 192 CN, nhà nước Champa được hình thành trong vùng các tỉnh
Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay, lệ thuộc vương quốc Phù Nam… Theo
Coedès, thì người Chàm tiến hành cuộc tấn công này (miền Trung Trung Bộ) vào
năm 193, có thể là người Chàm Hindou hóa. Vào năm 248, họ chiếm miền đất thuộc
xứ Huế ngày nay”.
(Bernard Bourotte, Người Thượng cao nguyên Nam Đông Dương, bản
tiếng Pháp, page 10)
Nhưng không phải đợi đến năm 192 CN mới
xuất hiện dân tộc Chàm. Ngay từ giữa thế kỷ I CN thời Mã Viện đánh chiếm nước
ta lập ra huyện Tượng Lâm thì sách Nam sử đã cho biết:
“Bên kia biên giới phía nam nước Lâm Ấp,
theo đường bộ đường thủy hơn hai trăm dặm có vương quốc của người man di Tây
Đồ. Mã Viện trồng hai trụ đồng để định ranh giới của nhà Hán”.
Như tất cả mọi dân tộc trên thế giới,
trong một vùng miền, ban đầu có nhiều bộ tộc sống cạnh nhau, rồi đến một thời
kỳ nào đó, trong số các bộ tộc ấy xuất hiện một viên thủ lĩnh kiệt xuất nhất
trong số nhiều thủ lĩnh khác đứng lên thâu tóm tất cả lập thành một nhà nước.
Từ khi cả miền ấy được tập họp thành một nhà nước chung thì sức mạnh tăng bội
dẫn đến khuynh hướng gây hấn với lân bang để chứng tỏ sức mạnh mới của một
vương quốc tổng lực.
Bi ký cũng chứng minh địa bàn hình thành
vương quốc Chàm tại miền Nam Trung Bộ. Bi ký xưa nhất của nước Chàm được tìm
thấy tại Võ Cạnh, một làng nằm phia tây thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa có
niên đại thế kỷ II - III CN. Bia viết rằng một vua Chàm là con hay cháu của vua
thủy tổ Cri Mara lập bia. Do đó có thể xác định kinh đô thời lập quốc của nhà
nước Chàm, vào cuối thế kỷ II là tại miền đất Nam Trung Bộ ngày nay.
Từ địa bàn ban đầu là Nam Trung Bộ, vương
quốc Chàm đã từng bành trướng về mọi hướng. Bành trướng về phía nam và phía
tây, ở Nam Bộ và Tây Nguyên họ đụng phải đế quốc Phù Nam rồi đế quốc Khmer dữ
dằn quá nên không lâu sau là quân xâm lấn bị tiêu diệt hoặc bị đẩy lùi. Phía
đông là biển Đông, thế là họ dồn sức mở rộng về phía bắc, nơi người Việt đang
bị đế quốc Hán thống trị. Người Việt bấy giờ bị tước hết quyền tự vệ, còn quân
đội thống trị trú đóng nơi vùng sâu vùng xa thì yếu kém.
“Thật sự, những người xin đi [hoặc được
bổ nhiệm đi làm quan] chẳng bao giờ chú ý đến số phận của nhân dân tại chỗ, mà
tự tung tự tác làm những việc thậm tệ và khi đã giàu rồi thì mong rời đi càng
sớm càng tốt”.
(Georges Maspéro, Vương quốc Chàm, tr.93)
Miền cực Nam của An Nam đô hộ phủ quá xa kinh đô Lạc
Dương không hề là nơi đáng quan tâm của các triều đại phong kiến Trung Hoa vốn
thường xuyên bị các dân tộc du mục phía bắc cũng như nạn tranh giành quyền lực
nội bộ đe dọa. Trong hơn một nghìn năm, người Việt không có quân đội của riêng
của mình. Từ phía nam núi Thạch Bi, quân Chàm thừa thế người Việt tay không vũ
khí, đã cướp phá, đánh đuổi người Việt suốt gần một ngàn năm. Đến đầu thế kỷ
thứ III CN thì quân Chàm đã tiến chiếm hết miền Trung Trung Bộ và gần một nửa
miền Bắc Trung Bộ từ núi Thạch Bi đến núi Hoành Sơn. Có thời kỳ họ đã chiếm
miền đất Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay.
Tượng thờ Hai Bà Trưng ở đền Đồng Nhân
(Hà Nội)
Khi nước Đại Việt độc lập, quân Việt đã từng
bước đẩy lùi họ về tận miền cực Nam Trung Bộ cho đến khi nước họ bị tiêu vong
hoàn
toàn.
Georges Maspéro cho
biết:
“Người
Chàm không ngừng tiến lên phía bắc. Năm 248, quân Chàm đánh các thành thị ở Cửu
Chân, cướp bóc, phá tan tành mọi thứ, họ đánh tan đội thủy quân của thực dân
Trung Hoa ở đó. Tôn Quyền phái Lục Dận làm Thứ sử Giao Châu. Để ngăn chặn người
Chàm tiến quân, Lục Dận phải điều đình với họ. Họ rút lui nhưng vẫn đóng giữ
Khu Túc (tức Huế)”.
(Georges Maspéro, Vương quốc Chàm, các tr. 90, 91
Nước Lâm Ấp vốn là huyện Tượng Lâm thuộc
quận Cửu Chân thuộc Giao Châu. Theo sử gia Pháp Aurousseau thì Lâm Ấp là kinh đô Lâm. Lâm Ấp có nghĩa là xứ Tượng Lâm, miền đất Tượng Lâm, thủ đô Tượng
Lâm, (xin xem từ ”Ấp” trong Từ điển Hán Việt của tác giả Thiều
Chửu), tương tự với Lạc ấp là miền đất kinh đô của nhà Ân mà Võ vương nhà
Chu đem làm đất phong cho Bàn Canh, con vua Trụ. Khu Liên là người Việt,
con trai một viên công tào (chức lại chuyên
văn thư cho chính quyền Bắc thuộc dùng người tại chỗ biết chữ Hán). Khu Liên
lãnh đạo nhân dân liên kết với đồng bào dân tộc miền núi Trường Sơn nổi lên
chiếm huyện Tượng Lâm lập thành nước Lâm Ấp. Cuộc khởi nghĩa này sau cuộc khởi
nghĩa của Hai bà Trưng 80 năm. Sau đó không lâu, nước Lâm Ấp bị vương quốc Chàm
thôn tính. Ngày nay người miền Trung Trung Bộ còn đền thờ vua Khu Liên, tức vua
Quang Chiếu. Đền thờ vua Quang Chiếu tại miền đông huyện Tư Nghĩa tỉnh Quảng
Ngãi ngày nay vẫn còn. Truyền thuyết vua Quang Chiếu còn lưu truyền suốt từ Đà
Nẵng, Quảng Nam đến Phú Yên, địa bàn huyện Tượng Lâm, nước Lâm Ấp thời xưa.
o0o
Đền thờ Hai Bà Trưng tại thôn Hạ Lôi, xã
Mê Linh, Huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc
Sử Trung Hoa vẫn gọi người Việt là người
Giao Chỉ. Ở đây không hề có ý chỉ riêng quận ”Giao Chỉ - Đồng bằng sông Hồng”
mà chỉ toàn thể dân Việt.
Biên giới phía nam nước ta thời bấy giờ
là núi Đồng Trụ mà Lê Thánh Tông cho đổi tên thành núi Thạch Bi là nơi Mã Viện
cho trồng hai trụ đồng ghi dòng chữ:
“Đồng
trụ chiết, Giao Chỉ diệt”
Có thể hiểu ý nghĩa của dòng chữ trên: “Người Việt phải cố mà giữ biên giới này cho nhà Hán.
Nếu mà quân bên kia núi tràn qua thì người Giao Chỉ bị diệt”. Hàm
ý rằng, người Trung Hoa chỉ đến làm quan, có bề gì thì rút về nước, chỉ người
Giao Chỉ bị làm nô lệ mà thôi.
“Những
quan lại do Triều đình Trung Quốc phái sang các quận thuộc địa thường không
được chọn lọc kỹ, việc tuyển lựa rất khó khăn vì khó có ai xin đi làm việc
ngoài ở biên ải xa xôi. Vì thế, khi có người vì hoàn cảnh gì đó xin đi thì vô
luận quá khứ tiền án tiền sự như thế nào đều được bổ nhiệm cả. Thật sự, những
người xin đi, chẳng bao giờ chú ý đến số phận của nhân dân tại chỗ, mà tự tung
tự tác làm những việc thậm tệ và khi đã giàu rồi thì mong rời đi càng sớm càng
tốt.
“Nhân dân tại chỗ bị quan Trung Hoa đánh
thuế rất nặng, như Thái thú Hàn Tập đánh thuế từ 50% trở lên các sản phẩm xuất
khẩu hoặc nhập khẩu bằng đường biển.”
(Georges Maspéro, Vương quốc Chàm, tr.93)
Thực tế, thì quân bên kia núi đã tràn qua
thật, chiếm mất quận Nhật Nam
và gần một nửa quận Cửu Chân của nước ta, quan Tàu chạy hết về nước, chẳng mấy
ai hề hấn gì. Nhưng người Việt đã không bị diệt mà còn quật khởi, đánh đuổi
chính quyền phong kiến Trung Hoa và quân chiếm đóng Chàm ra khỏi đất nước. Tuy
nhiên, cho đến nay, quận Hợp Phố coi như đã bị mất vĩnh viễn.
Chỉ riêng về mặt lãnh thổ, nhà nước ta
vẫn còn nợ Hai Bà.
* Thư ký Hội đồng Giải thưởng Trần Văn
Giàu
[1] Quận Hợp Phố nay thuộc tỉnh Quảng
Tây, Trung Quốc, địa bàn ngày nay gồm ba thành phố Khâm Châu, Bắc Hải,
Ngọc Lâm.
Biên Giới Việt Cổ
Sách Lĩnh Nam Chích quái liệt truyện- Truyện Hồng Bàng ghi: “Nhà nước Văn Lang: Đông giáp Nam Hải (nay là Quảng Đông- Trung Quốc) Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên- Trung Quốc) Bắc đến Động Đình Hồ (nay thuộc Tỉnh Hồ Nam Trung Quốc) Nam đến nước Hồ Tôn (Chiêm Thành).
Theo sách Những khám phá mới, nhận thức mới về Nguồn gốc dân tộc Việt và nền Văn minh Việt cổ.
Giáo sư, Bác sĩ Trần Đại Sỹ (Trường Y khoa Arma-Paris, Giám đốc Trung Quốc sự vụ Viện Pháp- Á) dịp khai giảng niên khoá 1991- 1992 tại Viện Pháp- Á đã công bố nghiên cứu khoa học của ông bằng cổ sử, triết học, khảo sát địa lý, di tích các vùng trên tại Trung Quốc, và hệ thống ADN, Trần Đại Sỹ xác định biên giới cổ của Việt Nam đúng như Truyện Hồng Bàng.
Trần Đại Sỹ đã du ngoạn Động Đình Hồ cái nôi của Việt tộc. Ông đã xác định ADN huyết thống Việt tộc tại vùng Động Đình Hồ và hùng hồn tuyên bố:
- Cho tới Bắc thuộc lần I, từ phía Nam sông Dương Tử xuống là vùng đất cư trú của cư dân Bách Việt, không cùng hệ thống ADN với người Trung Quốc.
Công trình khoa học về hệ thống AND của Trần Đại Sỹ đã kết thúc cuộc tranh cãi chín mươi năm qua về biên giới cổ của Việt Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt Nam bằng ADN đảo ngược tất cả các thuyết từ trước đến nay cho rằng “Người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn..”
Thực tế ADN khẳng định:
“Chính người việt tộc vùng Đông Nam Á đã đi lên phương Bắc để thành người Hoa”
Giáo sư, bác sĩ Trần Đại Sĩ nói:
- Tôi may mắn biết chừng nào, về công cuộc đi tìm lại biên giới cổ và nguồn gốc tộc Việt. Quí vị sẽ thấy rằng tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho. Người Việt cổ có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Sang đầu thế kỷ thứ nhất, nổ ra cuộc khởi nghĩa của một phụ nữ và một trăm sáu mươi hai anh hùng, trong đó có hơn trăm là nữ. Cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng, đuổi ngoại xâm Trung Hoa, lập nên triều đình Lĩnh Nam. Nối tiếp các thời đại sau đều có tinh thần bất khuất để tạo thành niềm tin vững chắc. Tộc Việt đã chiến đấu không ngừng để chống cuộc Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của người Hoa. Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hoá đến đâu, nhưng khi đất nước bị ngoại xâm, họ lập tức ngồi lại với nhau để bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt Nam, hễ ai dựa theo chủ đạo tộc Việt, họ đều thành công trong việc cai trị dân. Việt Nam nay đang trên đà phục hưng chủ đạo tộc Việt.
Tôi đi tìm nguồn gốc tộc Việt nhiều nhất bằng phương pháp y khoa, dùng biện chứng y khoa vào khảo cổ. Nước tôi có một tôn giáo mà toàn dân đều theo, đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn gia phả kể sự tích các ngài. Theo thời gian, tiểu sử các ngài được dân chúng huyền thoại hoá, nên dù là huyền sử cũng có chứng tích con người thật và khảo cổ học đã trả lời chính xác. Chúng tôi dùng hệ thống ADN, hệ thống sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những người đang sống của ba mươi lăm dòng họ tại Hoa Nam, những dòng họ khác tại Hoa Bắc. Lại cũng thử nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian. Cuối cùng chúng tôi tìm ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam, với những tộc Hoa Bắc và kết luận: “Lãnh thổ Văn Lang tới Hồ Động Đình”.
Cổ sử nói rằng trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng khi Trưng Nhị, Trần Năng, Phật Nguyệt, Lại Thế Cường, Trần Thiếu Lan đem quân đánh Trường Sa năm 39, thì nữ tướng Trần Thiếu Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm Giang (sự thật là Tương Giang thông với Hồ Động Đình). Năm 42 có trận đánh giữa Lĩnh Nam và Hán. Tướng Lĩnh Nam Tổng trấn Hồ Động Đình là Phật Nguyệt, tướng Hán là Mã Viện, Lưu Long. Sau năm 42 ba thống lĩnh kỵ binh của Bà Trưng là Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống, Đào Tam Lang, đánh nhau với quân Hán tại Bồ Lăng thuộc Tượng Quận vùng Ba Thục (Tứ Xuyên).
Theo ánh sáng cổ sử và huyền thoại, cuối năm 1980 tôi bay đi Bắc Kinh, rồi đi Trường Sa là thủ phủ của tỉnh Hồ Nam. Tất cả các di tích của Việt tộc như Hồ Động Đình, núi Tam Sơn, núi Ngũ Lĩnh, Sông Tương, Thiên Đài, cánh đồng Tương đều nằm ở tỉnh này. Tôi đi tìm núi Ngũ Lĩnh không khó nhọc. Tôi thấy ngay đó là năm dãy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc Trung Quốc hiện nay. Lập tức tôi thuê xe đi vòng quanh năm núi này. Tôi đi mất mười ngày, trải gần mười lăm ngàn cây số.
Tôi đi thăm ngọn Thiên Đài, chia lãnh thổ Lĩnh Bắc tức Trung Quốc, Lĩnh Nam tức Đại Việt. Ngọn đồi nhỏ cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói, nhiều chỗ bị khuyết, tường mất hết vữa, lún sâu. Duy cổng và nền bằng đá vẫn còn nguyên, cột kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Những câu đối, chữ còn, chữ mất.
Tại Thư Viện Hồ Nam, tôi tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, chữ viết như phượng múa, rồng bay. Đầu đề ghi Thiên Đài di sự lục do tiến sĩ Chu Minh Văn soạn, niên hiệu vua Đường Thái Tông năm 627. Sách được chép lại vào đời Thanh Khang Hy.
Tôi đọc sách nhắc lại việc vua Đế Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc Tục.
Thái tử Lộc Tục lên ngôi hiệu là Kinh Dương (năm Nhâm Tuất 2789 TCN). Sau người Việt lấy năm này là kỷ nguyên lập quốc. Tôi cộng cho đến năm 1991 tôi đến đền này là 4870 năm vì vậy người Việt tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn hiến.
Kinh Dương đặt tên nước là Xích Quỉ, đóng đô ở Phong Châu nay là Phú Thọ. Vua Kinh Dương lấy con gái vua Động Đình là Long Nữ đẻ ra thái tử Sùng Lãm. Sùng Lãm lên ngôi hiệu là Lạc Long Quân, đổi tên nước là Văn Lang. Nước Văn Lang Bắc tới Hồ động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp biển Đông Hải trong huyền thoại Việt Nam là có thật. Miếu thờ hai vua Đế Minh và Kinh Dương, tổ tông Việt tộc còn đây, hoang tàn đổ nát, không người phụng thờ hương khói. Đau xé lòng con cháu Việt tộc mấy ngàn năm.
Tôi chép một đoạn sách Thiên Đài di sự lục làm tin:
“ Cổ thời đỉnh núi có Thiên Đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh Dương. Thời Đông Hán có một tướng của vua Bà tên là Đào Hiển Hiệu được lệnh rút khỏi Trường Sa. Khi rút tới Quế Dương ông cùng nghìn quân lên Thiên Đài lễ, nghe người đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi.”
Tôi biết vua Bà là vua Trưng. Tướng Đào Hiển Hiệu là em con chú của Bắc Bình Vương Đào Kỳ lĩnh chức Đại Tư Mã thời vua Trưng. Còn tướng Đào Hiển Hiệu tước phong quốc công, giữ chức Hổ Nha đại tướng quân. Nữ tướng Hoàng Thiếu Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi Trường Sa, Hồ Động Đình, đã sai Hiển Hiệu đi cản trận, đóng rút chặn ở Thiên Đài, đợi quân Lĩnh Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thời Quốc Tổ, Quốc Mẫu, đã không chịu lui quân, tử chiến với quân Hán trên mảnh đất Thiêng của Tổ Tiên Việt tộc.
Nơi đền cổ hoang nát Thiên Đài còn đôi câu đối khắc vào đá:
Thiên Đài đại đại phân Nam Bắc
Địa lĩnh niên niên dữ Việt Thường
Nghĩa là:
Từ sau lễ vua Đế Minh tế cáo ở đây, đài thành Thiên Đài, biết bao đời phân ra Nam, Bắc.
Núi Ngũ Lĩnh năm này qua năm khác với giòng giống Việt Thường.
Nơi bệ thờ Đào Hiển Hiệu có đôi câu đối:
Nhất kiếm Nam Hồ kinh Vũ Đế
Thiên đao Bắc Lĩnh trấn Lưu Long
Nghĩa là:
Một kiếm đánh trận ở phía Nam Hồ Động Đình làm kinh tâm vua Quang Vũ nhà Hán. Ý chỉ nữ tướng Phật Nguyệt đánh bại Mã Viện ở phía Nam Hồ Động Đình. Một nghìn tàu đao do Hiển Hiệu thủ ở Bắc núi Ngũ Lĩnh trấn Lưu Long.
Như vậy là tôi đã tìm được di tích Tổ tông Việt tộc đã ghi trong cổ sử và huyền thoại. Vua Đế Minh tế cáo Trời Đất trên vùng núi Ngũ Lĩnh là có thật. Và vì có Thiên Đài thiêng của Việt tộc, nên thời Lĩnh Nam của vua Trưng mới có trận Hồ Động Đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lãnh địa thời vua Trưng cũng như Văn Lang xưa tới Ngũ Lĩnh, Hồ Động Đình. Vua Trưng đã thu được sáu mươi lăm thành rộng lớn tới núi Ngũ Lĩnh là chiến công hiển hách huy hoàng của quân và dân triều đình Lĩnh Nam, làm cho mỗi chúng ta kinh ngạc.
Trong những năm 1979- 1989 tôi dẫn phái đoàn Uỷ ban y học Pháp đi trao đổi tại các tỉnh Phú Xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu tôi thấy các tỉnh này ít nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Tôi ghi chú được hàng trăm ngôi đền. Một cuốn phổ soạn chép sự tích nứ tướng Phật Nguyệt, có đôi câu đối:
Tích trù Động đình uy trấn Hán
Tên còn trong sử sức phù Trưng
Câu chuyện về giáo sư bác sĩ Trần Đại Sỹ đã dày công sức, tài năng, tâm huyết đi vào những chi tiết huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, tin học, y học, khảo cổ để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, quả là một hiện tượng phi phàm, đầy thuyết phục khoa học. Không còn nghi ngờ. Không bàn cãi được.
Qua nhiều tài liệu xa xưa, của các vị quan Việt Nam đi sứ sang Trung Quốc, họ đã thắp hương trong những đền thờ Hai Bà Trưng ở Hồ Nam Trung Quốc. Nhiều vị sáng tác thơ gửi lại.
Tiến sĩ Nguyễn Thực (1544- 1637) người ở làng Vân Điền (tên Nôm gọi là làng Đóm) xã Vân Hà, huyện Đông Anh. Ông thi đỗ tiến sĩ đệ nhị giáp (Hoàng Giáp) khoa thi đình đầu tiên thời Lê Trung Hưng (1595) mở tại Thăng Long. Ông được cử làm sứ thần Việt Nam đi Trung Quốc, thời gian này ông có làm một số bài thơ, sau bị thất lạc. Mãi đến thế kỷ XVIII, Lê Quí Đôn sưu tầm được mười bài, có bốn bài làm trong thời gian đi trên đường đi sứ về. Trong bốn bài đó, có một bài ông nói về Đền thờ Hai Bà Trưng ở phía Nam dãy núi Ngũ Lĩnh.
Nam Hoài Chỉ Ngũ Lĩnh
Ngũ Lĩnh điêu nghiêu trấn Việt thuỷ
Hứa đa cảnh trí chiếm thanh kỳ
Uất thông, đông hậu thuỳ thiên cán
Nùng diễm xuân tiền mai nhất chi
Đồng trụ Trưng Vương lưu cựu tích
Thạch Nhai Trưng tướng phục tùng trì
Phong cương đại cổ phần trung ngoại
Thậm tiễn thiên công xảo thiết thơ.
Dịch nghĩa:
Về Nam đến rặng núi Ngũ Lĩnh
Ngũ Lĩnh chất ngất trấn ở vùng biên cương đất Việt
Biết bao cảnh trí tươi tắn lạ kỳ
Sau mùa đông ngàn cây tùng xanh um
Tươi mùa xuân một cành mai diễm lệ
Cột đồng còn lưu dấu cũ Trưng Vương
Đường đá nghiêng nghiêng bên ngôi đền Trưng Vương
Chốn biên cương từ xưa phân rõ trong ngoài
Rất phục thợ trời sao khéo đặt hang.
Hai thế kỷ sau. Ngô Thì Nhậm (1746- 1803) được cử đi sứ nhà Thanh, có nhắc lại cụ thể là năm 1783, ông sáng tác một tập thơ có hình vẽ Hoàng Hoa đồ phả, trong đó có bài Phân Mao Lĩnh (Núi Phân Mao)
Nhất đới thanh sơn Sở, Việt giao
Hoàng Mao dịch lộ nhận Phân Mao
Thiên thu bất tận Hành Sơn Lĩnh
Địa khí hoành phù Nhạn Trạch Mao
Trưng Trắc kiếm mang khai động phủ
Uy Đà quế để lạc sơn sào
Phong lai giải uẩn tay nam lợi
Vị ứng hùng bi vạn nhận cao
Dịch nghĩa:
Một giải núi xanh ở nơi giáp với Sở và Việt
Trên đường đến trạm hoàng mai nhận ra đó là núi Phân Mao
(Ranh giới Trung Hoa là do sách Trời đưa ra không quá núi Hành Sơn) (*)
Khi đất làm trôi ngược lông chim nhạn ô nhạn trạch (về phía Nam)
Lưỡi kiếm của Bà Trưng mở ra động phủ
Sân quế của Triệu Đà còn đầy trong hang núi
Gió từ Tây Nam làm nguôi cơn nồng
Coi thường núi Hùng bi dù cao tới muôn sải (**)
Ngô Thì Nhậm chú thích:
(*) “ Núi Phân Mao ở địa giới Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam, ở đây có cỏ mao, rẽ hai ngả Nam Bắc, trên đường đi có biểu đồ Phân Mao Lĩnh”.
(**) “Sách cũ ghi rõ khi Mã Viện thắng lợi đã bắt hơn ba trăm tướng lĩnh cừ khôi người Việt của Hai Bà Trưng đưa về Linh Lăng ở phần đất phía Nam tỉnh Hồ Nam”.
Hùng Bi là một dãy núi ở huyện Kỳ Dương, vùng cực Nam tỉnh Hồ Nam.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng thu lại 65 thành
từ Nam sông Dương Tử đến Giao Chỉ
Di tích, chứng tích về cuộc chiến của Hai Bà chống giặc Hán còn muôn thuở linh thiêng tại nhiều nơi trên vùng đất Lĩnh Nam của Lạc tướng Hùng Định.
Miếu thờ thần Quản Mã, Quản Tượng là những người huấn luyện voi ngựa cho Hai Bà và các tướng tại Khoang Mục, cách Cổ Lôi khoảng ba cây số. Xung quang Khoang Mục là bãi cỏ non rộng ngút ngàn, dâng thức ăn cho trâu bò, voi, ngựa.
Quán Ao Sen trước cửa đền Hạ Lôi (Thạch Thất- Hà Nội) thờ gia đình Hai Bà Trưng, có một ao trồng sen rộng khoảng vài mẫu gọi là Ao Sen. Xung quanh Quán Ao Sen có ba cây đa cổ thụ cao vút trời xanh, theo thế tam gíac.
Dân làng truyền nhau chuyện “Nồi da xáo thịt”:
- Th ời Lĩnh Nam, tuy có nhiều quặng, đồng trong
vùng, song phải dùng đúc vũ khí, chiêng, trống, loa, cồng, nên rất thiếu vạc đồng loại to để làm bếp nuôi quân. Nhân dân giết trâu bò, gỡ lấy thịt, còn da trâu căng rộng ra, nối vào rễ phụ của ba cây đa, đứng theo thế chân kiềng bắc bếp, làm nên chiếc vạc lớn, đem thịt chất lên vạc bằng da đó, chất củi đun thịt chín trong vạc da. Từ đó có thành ngữ “Nồi da nấu thịt”, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Tại một bản Mường giáp ranh giữa hai huyện Lương
Sơn và Thạch Thất còn di tích Làng Nam Giao, có nơi Hai Bà Trưng lập Đàn Nam Giao cúng tế Trời Đất. Sau khi đuổi sạch quân Đông Hán, Bà Trưng Trắc được suy tôn làm Hoàng Đế Cõi Lĩnh Nam, lễ đăng quang được cử hành trọng thể. Hoàng Đế Lĩnh Nam trong triều phục khăn áo vàng, cùng triều đình tới Đàn Nam Giao đã đắp sẵn, để tế lễ và tạ ơn Trời Đất và các tiên vương dòng Hùng.
Trong vùng Cổ Lôi Trang, cánh đồng phì nhiêu có miếu Quan Hoàng thờ Quan Hoàng Ba, đọc kiêng huý là ông Hoàng Bơ, em trai và là vị huân thần dũng tướng của Hai Bà Trưng. Ông Hoàng Bơ thường hoá thân hiển hách trong giá đồng thờ Mẫu. Bà Bát Nàn, tướng quân Vũ Trinh Thục của Hai Bà Trưng được tôn làm “Bà Chúa Thượng Ngàn” trong Tứ phủ công đồng Đạo Mẫu. Sinh thời bà được Hoàng đế Lĩnh Nam trao quyền thống quản mười tám cửa rừng từ Bạch Hạc xuống tới đèo Ba Dội.
Sử sách xác nhận thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa, nước ta vẫn còn là Lĩnh Nam thuộc thời kỳ Văn Lang- Bách Việt. Lãnh thổ Lĩnh Nam Bách Việt cũ trước và thời Hai Bà Trưng gồm vùng Động Đình Hồ nay thuộc tỉnh Hồ Nam Trung Quốc gọi là đất Dương Việt. Địa bàn của người Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử (từ núi Ngũ Lĩnh) đến Hà Tĩnh ngày nay.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã thu lại được sáu mươi lăm thành từ Nam sông Dương Tử đến Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc vùng đất miền Bắc nước ta hiện nay.
Gần hai nghìn năm lịch sử biến thiên, con cháu Việt tộc dò những bước chân, soi kính khoa học hiện đại, vẽ lại bản đồ non nước Lĩnh Nam, càng sáng rõ hơn về khí phách oai hùng và chiến công đánh giặc ngoại xâm của Hai Bà Trưng thuộc tầm nhân loại. Người dân Việt đời này sang đời khác tôn thờ Hai Bà trong thế giới tâm linh hiển sáng. Sức mạnh tâm linh đó đang truyền cho thời đại chúng ta.
Đền Hai Bà Trưng Cổ Lôi
Thờ chiến thắng lấy lại Biên giới Việt cổ
Thăng Long- Hà Nội tháng 4- 2012. Tôi đọc sách cổ, luôn bị ám ảnh về chuyện “Hai Bà Trưng về đền Hát Môn báo mộng cho vua Lý Anh Tông, xin xây đền ở Hương Cổ Lai. Vua đã xây đền Cổ Lai”.
Câu chuyện hư ảo, mang màu sắc u linh, thần thánh, linh thiêng, mà ngôi đền Cổ Lai thì có thực. Cổ Lai thơm hương khói mấy nghìn năm nay trên đất làng Việt Nam mà đức vua Lý làm theo giấc mơ linh ứng là có thật.
Đền Cổ Lai ở đâu?
Thế rồi, linh thiêng làm sao. Ngày Lễ Phục Sinh 2012, tôi được về thắp nén tâm nhang tại ngôi đền Cổ Lai cổ xưa do vua Lý Anh Tông xây, theo giấc mộng gặp Hai Bà Trưng.
Ngôi đền linh thiêng huyền diệu Cổ Lai nay mang tên Đền thờ Hai Bà Trưng ngự ngay trong thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh thành phố Hà Nội.
Tôi hỏi ông từ trông đền:
- Thưa cụ, đây có phải là Đền Cổ Lai ở Hương Cổ Lai xưa không?
- Vâng. Đất này là Cổ Lôi Trang, là Hương Cổ Lai của gia đình Lạc tướng Hùng Định. Ngôi đền thờ này được xây trên nền đất ngôi nhà của Hai Bà thuở trước. Đây chính là Đền Cổ Lai.
Tôi rưng rưng linh cảm, linh nghiệm từng bước đi may mắn của mình, bất ngờ về tìm lại Cổ Lôi Trang. Thắp nén hương lòng trong hậu cung, trước hai pho tượng Hai vua Bà linh hiển của Lĩnh Nam, đặt tay trên hoa văn mặt Trống Đồng được thờ trang nghiêm trước tượng Hai Bà, tôi thầm khấn nguyện:
- Xin anh linh Hai vua Bà trở về cứu con cháu, phù hộ độ trì cho chúng con giữ trọn đạo Việt, trung hiếu nghĩa nhân quả cảm, thông thái và minh triết của các vua Hùng, vững lòng trước cuồng phong, bão tố để giữ gìn non sông gấm vóc Việt Nam, gọi an vui trở về trong mỗi tâm hồn Việt Nam hiện đại.
Bâng khuâng, xao xuyến trước khung cảnh đền Cổ Lai nghìn năm xưa, nay khang trang bề thế, một không gian trên mười hai ha, thơm hương khói. Ngôi Tam toà chính điện cổ được bảo tồn nguyên vẹn. Hai bên tả hữu có nhà thờ thân phụ, thân mẫu sư phụ, sư mẫu của Hai Bà, nhà thờ Thi Sách và thân phụ, thân mẫu, nhà thờ các nam tướng, nữ tướng.
Dưới gốc cây muỗm cổ thụ nở hoa trắng li ti, toả hương mát dịu chúng tôi lặng nghe ông từ kể chuyện triều đình Trưng Vương:
“Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta/ Thưởng công tướng lính, tạ lòng dân/ Ơn cha mẹ ơn chồng/ Thương dân giảm thuế, chăm lo cấy trồng/ Một lòng phụng sự non sông/ Chăm lo xây dựng triều đình nhân văn”.
Cổ Lôi Trang thiêng liêng! Cổ Lôi Trang hùng khí nay trở thành cánh đồng Hoa Hồng. Cánh đồng Hoa Hồng bạt ngàn hoa. Hoa Hồng của Hai Bà Trưng dâng tặng dân làng Cổ Lôi Trang. Hoa Hồng Cổ Lôi Trang thơm hương đằm thắm nghĩa vợ, tình chồng, tình non nước, vua Bà Lĩnh Nam dâng tặng non sông Việt Nam. Linh thiêng thay!
HàNội Tàn Thu 2013.
1 nhận xét:
Quận Giao Chỉ có: ...Có 92.440 hộ, 76.237 khẩu (Sao khẩu ít hơn hộ)?
Đăng nhận xét