Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2016

Tạ Ngọc Tấn: thúc đổi mới chính trị; Nguyễn Thành Phong hiểu cái khó của TPHCM;Nguyễn Đức Chung CTHN: đọc tham luận do người khác soạn hộ

Cần minh bạch trong cơ chế phân quyền cho địa phương

23/01/2016 08:09 GMT+7
TT - Phát biểu trong phiên thảo luận tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII sáng 22-1, đại biểu Nguyễn Thành Phong - Ủy viên Trung ương Đảng, chủ tịch UBND TP.HCM đề nghị như trên.
Ông Nguyễn Thành Phong - Ảnh: TTXVN
Ông Nguyễn Thành Phong - Ảnh: TTXVN
Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong thẳng thắn: “Trung ương đã đề ra nhiều nghị quyết, ban hành nhiều bộ luật, luật trong nỗ lực hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập, chưa thật sự tạo động lực khuyến khích sự năng động của các địa phương, chưa tạo ra được những đột phá trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế”.
Ông Nguyễn Thành Phong cho rằng TP.HCM cùng với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một địa bàn có rất nhiều tiềm năng và lợi thế, đặc biệt là trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
“Tuy nhiên do chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát huy và khai thác có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế ấy để đóng góp nhiều hơn cho đất nước” - ông Phong nói.
Theo ông, trong thiết kế cơ chế, chính sách rất cần chú trọng vào hình thành các động lực, phù hợp với điều kiện từng vùng, miền và tạo không gian chủ động cho các địa phương.
Với sự liên kết vùng còn lỏng lẻo như hiện nay, các tỉnh thành trước thúc ép tăng trưởng và thu hút vốn đầu tư thường thông qua những biện pháp phía cung để thúc đẩy kinh tế. Sự lan tỏa và giao thoa tích cực về kinh tế không được tận dụng triệt để.
Ông Nguyễn Thành Phong cho rằng phải ưu tiên cho chất lượng tăng trưởng thay vì tốc độ tăng trưởng.
Trong đó, “phải khơi thông các tắc nghẽn trong cơ chế ngành và liên ngành, hình thành được các động cơ khuyến khích, tích hợp được các chiến lược sử dụng hiệu quả và huy động được các nguồn lực trong xã hội”.
Ông Nguyễn Thành Phong đề nghị phải quy định minh bạch ba cơ chế: phân quyền, phân cấp và ủy quyền cho địa phương. Đồng thời tạo cơ chế để tăng cường hiệu lực kiểm tra, thanh tra của Chính phủ đối với chính quyền địa phương.
“Việc phân quyền, phân cấp, ủy quyền mạnh mẽ cho các đô thị sẽ tạo điều kiện, không gian cho sự chủ động, sáng tạo để có khả năng phát triển hài hòa và toàn diện” - ông Phong phân tích.
Ông Nguyễn Thành Phong cũng khẳng định để có một thị trường sôi động, cạnh tranh thì Nhà nước không nên làm thay thị trường mà tập trung tạo môi trường, động lực để phát huy vai trò của thị trường trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Ông nhấn mạnh: “Sự tham gia của nhân dân trong quy trình ra các quyết định về chính sách là một yếu tố cần phải được đảm bảo. Đồng thời tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà nước trong các quyết định về chính sách, quản lý, điều hành...”.
Kết thúc bài phát biểu nhiều tâm huyết vì sự phát triển của đất nước, của TP.HCM, ông Nguyễn Thành Phong nói TP.HCM kiến nghị các cơ chế phát triển cho những đô thị đặc thù là nằm trong quá trình phát triển chung của đất nước.
Ông chia sẻ: “TP.HCM luôn xác định trách nhiệm cao với nhân dân cả nước, quán triệt sâu sắc tinh thần TP.HCM “vì cả nước, cùng cả nước””.
Bài phát biểu của Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong kết thúc trong tiếng vỗ tay của hội trường và được chủ tọa điều hành phiên thảo luận, ông Nguyễn Sinh Hùng - ủy viên Bộ Chính trị, chủ tịch Quốc hội - đánh giá: “Đầy quyết tâm!”.
Ảnh: TTXVN
Ảnh: TTXVN
* Đại biểu TẠ NGỌC TẤN
 (ủy viên Trung ương Đảng, 
giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh):
Chậm đổi mới 
chính trị sẽ bỏ lỡ 
thời cơ phát triển
Sự phát triển của đất nước trong thời kỳ hiện nay hơn lúc nào hết đòi hỏi phải có một mô hình chủ nghĩa xã hội riêng của VN.

Mô hình đó vừa phản ánh những giá trị phổ quát của chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh những đặc thù, đặc điểm của đất nước VN. Được thể hiện bằng những đặc trưng bản chất chủ nghĩa xã hội của VN, phương hướng cơ bản để đưa ra các giải pháp, cách thức tiến hành mang ý nghĩa đột phá...
Thực tế công cuộc đổi mới trong 30 năm qua đã cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
Đặc biệt là bài học về tôn trọng lợi ích quốc gia và những sáng kiến của nhân dân, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với tinh thần vận dụng sáng tạo đó, nhiều vấn đề lý luận mới chưa từng có đã được tổng kết từ thực tiễn.
Làm cơ sở cho Đảng và Nhà nước ta vận dụng và đưa vào áp dụng trong thực tế một loạt những chính sách mới mang lại hiệu quả như: khoán trong nông nghiệp, cổ phần hóa doanh nghiệp, đảng viên làm kinh tế, kinh tế hàng hóa đa thành phần, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa...
Sự chậm trễ trong đổi mới chính trị không chỉ hạn chế hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội mà còn làm cho chúng ta bỏ lỡ thời cơ phát triển, làm suy yếu chế độ và hạn chế nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta quan niệm: dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển đất nước.
Do vậy coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ, đi đôi với việc nêu cao trách nhiệm chính trị, tổ chức và cá nhân, đồng thời hiện thực hóa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi rất lớn sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa nói và làm.
Ảnh: TTXVN
Ảnh: TTXVN
* Đại biểu MAI VĂN NINH
 (ủy viên Trung ương Đảng, 
phó trưởng Ban Tuyên giáo trung ương):
Thông tin kịp thời 
sẽ giải tỏa bức xúc của dân
Nhiệm vụ trọng tâm là gắn kết thường xuyên, chặt chẽ công tác tuyên giáo với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết từ gốc, từ sớm các vấn đề có thể dẫn đến nảy sinh những bức xúc về tư tưởng.
Thực tiễn cho thấy những bức xúc của nhân dân dù mức độ phức tạp đến đâu, nếu thông tin kịp thời, đúng đắn để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thì sự việc sẽ được giải quyết một cách ổn thỏa, bức xúc sẽ được giải tỏa và ngược lại.
Công tác tuyên giáo không thể đi sau thực tiễn, mà phải đi trước để dự báo, định hướng.
VIỄN SỰ - V.V.THÀNH ghi




Chủ tịch Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung phát biểu điều gì ở Đại hội Đảng?


(GDVN) - Ông Nguyễn Đức Chung - Chủ tịch UBND TP Hà Nội cho rằng, phát triển kinh tế phải đi đôi với nâng cao đời sống của người dân, giữ vững an ninh, quốc phòng.

Với vị thế là Thủ đô - trái tim của cả nước, có truyền thống ngàn năm văn hiến, Hà Nội được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo, tập trung đầu tư về mọi mặt để phát triển thành trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế.
Vì vậy, Hà Nội có trách nhiệm cao trong việc chủ động nhận thức, tiên phong thực hiện, vận dụng sáng tạo, từng bước tháo gỡ khó khăn vướng mắc, phát huy các tiềm năng thế mạnh, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng thành công kinh tế thị trường định hướng XHCN trên địa bàn Thủ đô.
Ông Nguyễn Đức Chung - Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội. ảnh: TTXVN.
Trong suốt 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Trung ương Đảng, qua 16 nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ, thành phố Hà Nội ngày càng hoàn thiện nhận thức và tư duy đổi mới về kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với điều kiện đặc thù của Thủ đô.
Trong đó, Đảng bộ Hà Nội xác định phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phải tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Phát triển kinh tế phải dựa trên các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường để giải phóng sức sản xuất, phát huy mọi nguồn lực để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô.
Đồng thời phải đi đôi với phát triển văn hóa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội; hội nhập quốc tế phải gắn liền với độc lập dân tộc, giữ vững ổn định chính trị và quốc phòng an ninh, tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tham luận tại Đại hội, Đoàn đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội đánh giá phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nội dung lớn và quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng ta.
Qua các kỳ Đại hội, từ Đại hội VI đến Đại hội XI, quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không ngừng được phát triển, ngày càng hoàn thiện.
Để kinh tế thị trường định hướng XHCN đi vào cuộc sống, vấn đề mấu chốt là phải hoàn thiện thể chế.
Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và chịu tác động sâu sắc, nhiều chiều đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Để phát triển thành công kinh tế thị trường định hướng XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc hoàn thiện thể chế là điều kiện tiên quyết, hết sức quan trọng, trong đó cần rà soát lại mô hình tổng quát phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta cho phù hợp với yêu cầu hội nhập sâu rộng của đất nước trong thời gian tới.
Trong quá trình rà soát, cần xác định những đặc trưng mang tính phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại để tham chiếu, vận dụng trong quản lý, điều hành nền kinh tế nước ta.
Rà soát và có lộ trình điều chỉnh, bổ sung các chính sách, pháp luật và văn bản hướng dẫn có liên quan về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhất là về chế độ sở hữu, phân phối và lưu thông hàng hóa.
Bên cạnh việc vận dụng thống nhất, đồng bộ và hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong cả nước, cần tính đến các đặc thù của từng vùng, từng địa phương. 

(Chính trị) - Sáng 22/1/2016, tại phiên thảo luận các văn kiện Đại hội XII, đồng chí Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ Công Thương trình bày tham luận “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, những vấn đề đặt ra cho giai đoạn tới”.

BBT xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc toàn văn tham luận:
Toàn văn tham luận do Thứ trưởng Trần Tuấn Anh trình bày tại Đại hội Đảng 12
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ Công thương trình bày tham luận tại Đại hội XII. Ảnh: TTXVN
Kính thưa Đoàn chủ tịch Đại hội,
Kính thưa các vị khách quý,
Kính thưa Đại hội,
Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, đất nước chúng ta đã từng bước, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhìn lại chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, chúng ta thấy rõ hơn những thành tựu đạt được, cùng với những thuận lợi, khó khăn, những cơ hội, thách thức để từ đó phát huy các kết quả đã đạt được, tiếp tục chủ động và tích cực để đạt được những thành tựu mới, vững chắc hơn trong thời gian tới.
Với ý nghĩa đó, tại diễn đàn Đại hội ngày hôm nay, tôi xin tham luận về chủ đề Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, những vấn đề đặt ra cho giai đoạn tới với những nội dung chính như sau:
1. Nhân tố quan trọng nhất, quyết định sự thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn vừa qua là hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng
Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng ta, là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng, xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, các chủ trương cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế được nêu tại các kỳ Đại hội Đảng; Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành ba Nghị quyết chuyên đề về hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước đã đưa ra chủ trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác”.
Đại hội VII định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ chức kinh tế quốc tế”.
Tại Đại hội VIII, mở ra chủ trương “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”.
Đại hội IX nhấn mạnh “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đại hội X nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”.
Ngày 05-02-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”.
Đại hội XI đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta.
Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
2. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng, tham gia hầu hết các tổ chức, định chế quốc tế và khu vực chủ yếu trên thế giới
– Việt Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7-1995. Sự kiện này được coi là một bước đột phávề hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Ngày 22/11/2015, các nhà Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Kua-la-Lum-pur chính thức thành lập Cộng đồng ASEAN, trong đó có Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào ngày 31/12/2015. Việc tham gia ASEAN và thực hiện các cam kết nhằm xây dựng Cộng đồng ASEAN sẽ đóng góp thiết thực cho việc góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định cải thiện môi trường luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, tiền đề giúp Việt Nam tham gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.
Việt Nam là thành viên tham gia sáng lập và là một thành viên tích cực của Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) năm 1996; Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) vào năm 1998. Việt Nam đã được đánh giá là một trong những thành viên năng động, đã có nhiều sáng kiến hợp tác và đóng góp tích cực cho các Diễn đàn hợp tác quốc tế quan trọng này.
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại lớn nhất toàn cầu WTO vào tháng 01/2007, đánh dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào kinh tế thế giới. Với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư đồng bộ, theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, góp phần quan trọng cho viểc xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phù hợp với xu hướng thiết lập các khu vực thương mại tự do trên thế giới, tính đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 56 quốc gia và nền kinh tế trến thế giới, trong đó 6 FTA do ta chủ động tham gia ngoài khuôn khổ nội khối ASEAN hoặc với nước đối tác của ASEAN. (12 FTA Việt Nam đã tham gia gồm: WTO, TPP, Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA), ASEAN-Hàn Quốc, ASEAN-Nhật Bản, ASEAN-Úc-Niu-di-lân, ASEAN-Ấn Độ, Việt Nam-Chi-lê, Việt Nam-Nhật Bản, Việt Nam-EU, Việt Nam-Liên minh kinh tế Á-Âu, Việt Nam-Hàn Quốc).
– Việt Nam đã hoàn tất đàm phán để ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đây là một Hiệp định được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ thương mại toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ 21. Việc tham gia vào Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại, đồng thời Việt Nam có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói riêng.
3. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế về cơ bản đã đạt được những kết quả tích cực và dài hạn trong những lĩnh vực sau:
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế gần 30 năm qua đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam, mở rộng quan hệ hợp tác sâu, rộng với các quốc gia trong khu vực và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế với một số tác động tích cực chủ yếu như sau:
– Tác động mạnh đến sự tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong một số lĩnh vực cụ thể như: công nghiệp, thương mại, các ngành dịch vụ,…; thúc đâỷtái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn; thúc đẩy thương mại, tăng thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và mở rộng quan hệ hợp tác phát triển (ODA).
– Góp phần «lan tỏa» tích cực trong nền kinh tế, nhất là tạo thêm việc làm, các ngành có tốc độ tăng việc làm cao nhất cũng là những ngành mở cửa nhanh hơn hoặc những ngành áp dụng công nghệ mới để cạnh tranh, tạo tài sản sản xuất và hạ tầng như công nghệ chế tạo, xây dựng, tài chính ngân hàng, khoa học công nghệ; tác động tích cực tới tiền lương và thu nhập của mọi tầng lớp cư dân, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh (quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm).
– Tiếp thu được khoa học – công nghệ mới và kỹ năng quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật, văn hóa – xã hội… góp phần đào tạo cho Việt Nam có được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý.
– Góp phần hoàn thiện thể chế trong nước trên góc độ: pháp luật và tổ chức bộ máy, cùng với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tạo hiệu ứng tích cực thúc đẩy cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hoàn thiện môi trường kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế nước ta trong dài hạn, tạo ra môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng, minh bạch, dễ dự đoán hơn và ngày càng phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế..
– Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất khu vực, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn (Năm 2015, công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực chính cho tăng trưởng GDP).
4. Qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam vẫn còn những khó khăn và hạn chế, ảnh hưởng đến tiến trình cũng như hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, hội nhập kinh tế quốc tế trong một số lĩnh vực vẫn còn một số hạn chế, như:
– Tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa thực sự vững chắc, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tuy đã chuyển dịch mạnh sang hàng chế biến, chế tạo, nhưng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; nhập siêu vẫn là nguy cơ, còn không ít bất cập trong cơ cấu nhập khẩu. Về cơ bản nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tăng trưởng thương mại, vào khai thác tài nguyên, khoáng sản, xuất khẩu hàng nông sản thô với hàm lượng chế biến thấp và gia công hàng hóa ở công đoạn thấp của chuỗi giá trị (dệt may, da giày, điện tử…).
– Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung còn thấp, chịu sức cạnh tranh lớn từ doanh nghiệp nước ngoài, dẫn đến một số ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở cửa thị trường, nhập khẩu tăng mạnh, song thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm,… Năng suất lao động tăng chậm, thu hút đầu tư vẫn dựa vào lợi thế nhân công và chi phí mặt bằng rẻ, chi phí năng lượng thấp đã ảnh hướng nhiều đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, sản phẩm.
– Khả năng tích lũy vốn nhân lực và tiến bộ công nghệ của Việt Nam còn rất khiêm tốn, biểu hiện ở mức năng suất lao động thấp và trình độ công nghệ của đa số doanh nghiệp còn khá lạc hậu.
– Các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thế.
– Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
5. Đề xuất, kiến nghị về hội nhập kinh tế quốc tế cho giai đoạn tới
Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định song phương, đa phương thế hệ mới. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng kinh tế ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước.
Trong giai đoạn vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng và chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển khai chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế; tiến hành nghiên cứu, đàm phán và ký kết nhiều thỏa thuận kinh tế thương mại quốc tế. Từ năm 2010 đến nay, chúng ta đã chuyển sang giai đoạn chủ động đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều nước trong khu vực và thế giới, tạo điều kiện quan trọng cho cải cách kinh tế trong nước và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp, nâng cao lợi thế cạnh tranh của hàng hóa. Hơn thế nữa, kết quả hội nhập kinh tế to lớn đó còn giúp Việt Nam thực hiện chiến lược cơ cấu lại thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn, thúc đẩy cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm. Do vậy, trong giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta phải chủ động và tích cực hơn nữa trong việc tận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, vuợt qua các khó khăn thách thức, giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập, cụ thể:
Về quan điểm, đường lối
Quán triệt Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết 22-NQ/TW, chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”phải là một nội dung trọng tâm trong các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, với mục tiêu thúc đẩy và tăng cường hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy chuyển dịch và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh; tích cực tham gia sâu và rộng vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Trong phát triển kinh tế và thương mại, cần chú trọng việc đổi mới công nghệ và bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ nước ta trên trường quốc tế.
Về các giải pháp cụ thể
Một là, các Bộ, ngành và địa phương cần chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch toàn diện và cụ thể thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW trong bối cảnh thế giới cũng như trong nước có nhiều thay đổi lớn. Đồng thời, cần quán triệt chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ trong từng giai đoạn về hội nhập quốc tế, xác định vai trò trọng tâm của hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình hội nhập trong quan điểm, nhận thức và hành động của tất cả các các cấp, các ngành, các ngành, địa phương, toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp; cần có sự thống nhất mục tiêu hội nhập từ trung ương đến địa phương.
Hai là, gắn kết giữa hội nhập kinh tế quốc tế với đẩy mạnh cải cách trong nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế trong tổng thể phát triển kinh tế – xã hôi đất nước; nhằm bảo đảm tầm nhìn dài hạn về các mục tiêu phát triển kinh tế, mục tiêu chính trị ngoại giao và mục tiêu chiến lược trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, chú trọng thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh mức độ cam kết và tự do hóa thương mại ngày càng cao hơn, đồng thời có các điều chỉnh thương mại trên cơ sở cam kết với các tổ chức quốc tế và khu vực để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện các cam kết thương mại.
Bốn là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các cam kết hội nhập, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ngày càng phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm.
Sáu là, tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, đánh giá và dự báo các vấn đề mới, các xu thế vận động của hội nhập, đặc biệt trong việc thực hiện các cam kết thương mại, các FTA ở cấp độ cao hơn để có các điều chỉnh chính sách và biện pháp phù hợp; hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành thị trường đủ năng lực, hoạt động hiệu quả để bảo vệ trị trường trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, gắn với bảo vệ môi trường.
Kính thưa Đại hội,
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng, trong đó “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” là chủ trương định hướng cơ bản, lâu dài cho những năm tiếp theo trong quá trình hội nhập quốc tế, góp phần quan trọng vào mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, góp phần thực hiện lời căn dặn và mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Dân tộc Việt Nam sẽ bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu.
Xin chân thành cảm ơn các vị đại biểu và xin chúc Đại hội thành công tốt đẹp.
(Theo Infonet)

Theo TTXVN

1 nhận xét:

Người Hà Nội nói...

Xem tham luận của ông Bùi Quang Vinh (BT KHĐT) và ông Nguyễn Thành Phong (CT TPHCM)thì tham luận của ông CT Hà Nội Nguyễn Đức Chung chỉ là mấy từ sáo và cũ rích của một con vẹt. Trong hai ba nhiệm kỳ gần đây sao Hà Nội chỉ có những ông Bí thư, Chủ tịch dốt và cơ hội