11/10/2016
Ngô Thế Vinh
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long và Uỷ Ban Mekong Việt Nam
11-10-2016
LÀM XANH CAO NGUYÊN ISAAN
Isaan là một vùng châu thổ rộng lớn trên cao nguyên Khorat trong
lưu vực Sông Mekong, bao gồm 20 tỉnh đông bắc Thái Lan, chiếm đến 1/3 toàn diện
tích 514,000 km2 của Thái với hơn 20 triệu dân cũng chiếm khoảng 1/3 dân số
Thái nhưng vẫn còn là một vùng nghèo và khô hạn, cho dù được bao quanh bởi con
sông Mekong như một biên giới thiên nhiên giữa Thái – Lào. Do sự toa rập giữa
thực dân Pháp và Anh, họ đã cắt một phần đất Lào sát nhập vào Thái từ 1941, do
đó cư dân Isaan đa số là người Lào còn được gọi là Thay Isaan, nói cùng ngôn
ngữ, chủ yếu sống bằng nghề nông, tơ lụa và chài lưới. Còn phải kể tới một số
không ít người Việt sinh sống lâu năm tại đây.
Vào những năm 1960s, để đáp ứng với cường độ chiến tranh gia
tăng tại Việt Nam, đã lan rộng ra ba nước Đông Dương và cũng để ngăn chặn Cộng
sản xâm nhập vào đất Thái, người Mỹ đã ồ ạt đổ tiền vào phát triển cao nguyên
Isaan, mở mang hệ thống xa lộ tối tân, xây 4 phi trường quân sự chiến lược, nơi
phát xuất các đoàn máy bay phản lực oanh kích Bắc Việt và cả những đoàn cấp cứu
phi công Mỹ bị bắn rơi. Mỹ cũng giúp Thái xây các đập thuỷ điện trên phụ lưu
Sông Mekong, nhằm điện khí hoá nông thôn, cải thiện thệ thống dẫn thuỷ khiến
mức sản xuất nông sản gia tăng.
Thái Lan bấy
lâu vẫn là quốc gia xuất cảng lúa gạo lớn nhất thế giới nên “Nước” luôn luôn là
nhu cầu bức thiết để phục vụ nông nghiệp và cả kỹ nghệ. Isaan là vùng nông nghiệp
nhưng khô hạn, do đó “Nước” là chiêu bài để các chính trị gia Thái tranh phiếu
trong các cuộc bầu cử. Người dân sống trên cao nguyên Isaan luôn luôn được hứa
hẹn sẽ có một cuộc sống sung túc hơn nếu có thêm nước trong mùa khô và để có được
hai mùa gặt trong một năm. [Hình 1]
VỚI HAI DỰ ÁN KCM VÀ KIN CHƯA HOÀN TẤT
Rất sớm, vào cuối thập niên 1980s, dưới thời chánh phủ quân
phiệt với Thủ tướng Chatchai Choomhavan, để giải quyết nạn thiếu nước trên tầm
vóc quốc gia, giới lãnh đạo Thái đã có “ý tưởng lớn” về một kế hoạch táo bạo
chuyển dòng lấy nước từ Sông Mekong. Dự án mang tên Kong-Chi-Mun đi kèm theo
với khẩu hiệu “Làm Xanh Isaan / Greening Isaan”.
Dự Án Kong-Chi-Mun: Từ 1992, chánh phủ Thái đã chính thức tiết lộ một kế hoạch lớn
lao với tổn phí lên tới 4 tỉ Mỹ kim để cứu vùng đất Isaan đông bắc Thái luôn
luôn bị khô hạn. Đó là công trình Dẫn thủy KCM [Kong-Chi-Mun Irrigation
Project] nhằm lấy nước từ khúc sông Mekong gần Nong Khai để chuyển về chuỗi
những con đập trên hai sông Chi và sông Mun qua một hệ thống ống dẫn / aqueduct
khổng lồ dài 200 km. (4)
Dự tính ban đầu chỉ lấy nước Sông Mekong trong mùa mưa, nhưng
sau đó Thái Lan quyết định lấy nước cả trong mùa khô với lưu lượng chuyển dòng
lên tới 300 m3/ giây, trên lưu lượng trung bình 1600 m3/ giây mùa khô / nơi
Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL).
Hình 2: Dự án
Kong-Chi-Mun
Cho dù chính nhóm chuyên viên Thái có nhận định rằng sự lượng
giá ảnh hưởng môi sinh / Environmental Impact Assessment (EIA) còn thiếu
sót và tổn phí thì quá cao nhưng giai đoạn I của Dự án KCM vẫn cứ được thông
qua. Hậu quả ban đầu của Dự án KCM khi mới triển khai đã đưa tới hủy hoại các
khu rừng lũ [flooded forest], làm tăng nhiễm mặn các vùng trồng trọt đông bắc
Thái, và gây những ảnh hưởng tiêu cực trên đời sống cư dân địa phương. [Hình 2]
1994 Dự Án Kok-Ing-Nan
Chỉ hai năm sau, chánh phủ Thái Lan đã nói tới một kế hoạch lớn
thứ hai: Dự án Kok-Ing-Nan. Đây là một dự án chuyển nước “xuyên
lưu vực / transbasin diversion” hết
sức táo bạo: lấy nước từ lưu vực Sông Mekong chuyển sang lưu vực Sông Chao
Phraya, có quy mô rất lớn, tổn phí lên tới 1.5 tỉ Mỹ kim.
Đó là kế hoạch nhằm chuyển dòng nước từ hai phụ lưu lớn của Sông
Mekong là sông Kok và sông Ing ở vùng Chiang Rai bắc Thái cho chảy qua những
đường hầm / tunnels khổng lồ dài hơn 100 km để chuyển nước vào sông Nan — sông
Nan là một phụ lưu của sông Chao Phraya. [Hình 3]
Hình 3: Dự án
Kok-Ing-Nan
Sông Chao Phraya, như mạch sống của người dân Thái đang bị cạn
dòng và nhiễm mặn. Lượng nước từ con sông Kok và sông Ing sẽ được tiếp cho con
đập lớn Sirikit, quanh năm thiếu nước. Nước từ hồ chứa Sirikit không chỉ nhằm
cung cấp nước tưới cho những cánh đồng bao la vùng châu thổ Chao Phraya bị khô
hạn, mà cả cung ứng nước cho các khu kỹ nghệ đang phát triển và hàng chục triệu
dân đang sống ở thủ đô Bangkok.
Chánh phủ Thái ở một vị trí đầy quyền lực để thực hiện Dự án
Kok-Ing-Nan, vì cả hai phụ lưu sông Mekong nằm trong lãnh thổ Thái. Khi công
trình hoàn tất, Thái Lan có khả năng chuyển 2,200 triệu mét khối nước/ năm
[2,200 MCM] lấy từ lưu vực của con Sông Mekong chuyển sang lưu vực Sông Chao
Phraya.
Do chưa có một Lượng Giá Ảnh Hưởng Môi Sinh EIA đầy đủ nên ngay
từ con đập đầu tiên Rasi Salai trong Dự án KCM hoàn tất năm 1994 đã gây ngay
những ảnh hưởng nghiêm trọng trên đời sống cư dân địa phương. Chỉ riêng hồ chứa
của con đập này đã làm ngập lụt cả một vùng đất đai đang canh tác của hơn 15
ngàn dân làng mà đa số cho đến nay vẫn chưa được đền bù, không những thế con
đập còn gây nạn nhiễm mặn khiến nguồn nước gia dụng không còn dùng được nữa. Và
cư dân địa phương đã vận động đòi phá bỏ con đập này. (2)
Vì nhiều lý do khách quan: do quá tốn kém, và cả bị đa số cư dân
địa phương chống đối mạnh mẽ nên Dự án Kong-Chi-Mun chỉ thực hiện được một phần
giai đoạn I thì bị gác lại một thời gian.
KLCM DỰ ÁN MỞ RỘNG: CƠN ÁC MỘNG TRỞ LẠI
Năm 2008, Nội các chánh phủ Thái Lan lại một lần nữa đưa ra bàn
thảo kế hoạch lấy nước từ Sông Mekong chuyển về cao nguyên Isaan. Dự án KCM /
Kong-Chi-Mun nay lại được phục hoạt nhưng mở rộng với tăng cường thêm những
đường dẫn nước mới, có tên là Dự án Kong-Loei-Chi-Mun / KLCM. Chi phí cho dự án
KLCM vượt lên tới con số 17 tỉ — tức mười bảy ngàn triệu Mỹ Kim. Công trình
KLCM dự trù hoàn tất trong 15 năm, kinh phí đầu tư có thể lên tới 76.8 tỉ
Mỹ Kim. (3)
Một câu hỏi được đặt ra: số tiền khổng lồ 76.8 tỉ MK này sẽ lấy
từ đâu, và người ta không thể không không nghĩ tới nguồn tài chánh vô hạn đến
từ Trung Quốc. Nghi vấn ấy xem ra lại rất phù hợp với các bước chiến lược của
đại kế hoạch One Belt One Road (OBOR) trong Khối Hợp tác Lancang-Mekong do Bắc
Kinh thành lập mới đây, mà thực chất là âm mưu khống chế toàn lưu vực Sông
Mekong, và Việt Nam là quốc gia cuối nguồn sẽ phải quỳ gối khuất phục.
Sông Loei là tên một phụ lưu lớn khác của Sông Mekong, bắt nguồn
từ cao nguyên Phu Luang chảy về hướng nam rồi đông nam như ranh giới thiên
nhiên giữa hai tỉnh Loei và Phetchabun, rồi lại chảy vòng lên hướng bắc qua
huyện Chiang Khan trước khi đổ vào Sông Mekong.
Từ tháng 4 năm 2016, Cục Thuỷ Lợi Hoàng Gia Thái [RID/ Royal
Irrigation Department] đã bắt đầu bơm lấy nước từ Sông Mekong, cùng lúc cho
chuyển nước từ Sông Loei tới cao nguyên Isaan, đi qua một “Cổng Lũ / Flood Gate
Si Sin Rak”. Gọi là “Cổng Lũ” nhưng đó chính là một con đập được xây ngay nơi
cửa Sông Loei. Cư dân địa phương từ hai tỉnh Ban Klang và Chiang Khan chống đối
mạnh mẽ dự án xây con đập Si Sin Rak này.
Trong một cuộc tụ họp, một phụ nữ trong làng đã lên tiếng:
“Chúng tôi đã sống ở đây qua nhiều đời, và muốn được tiếp tục sống ở nơi đây
chứ không muốn phải dời đi nơi khác chỉ để được đền bù.” Và dân làng cũng được
biết là chưa hề có được một Lượng Giá Ảnh Hưởng Môi Sinh EIA trước khi xây con
đập Si Sin Rak này. Trong khi đó thì Cục Thuỷ Lợi Hoàng Gia Thái bảo cho họ
biết là Lượng Giá Ảnh Hưởng Môi Sinh EIA “không cần thiết vì chỉ có khoảng 500
gia đình chịu ảnh hưởng”. Nhưng hàng ngàn dân làng thuộc tỉnh Ban Klang vẫn
nhất quyết yêu cầu chánh phủ thực hiện nghiêm chỉnh một EIA trước khi triển
khai dự án đập này.
CÁI GIÁ CỦA NGUỒN NƯỚC TỚI ISAAN
Với cư dân Isaan. Do KLCM là một dự án đầu tư nhằm sinh lợi. Cho dù với chiêu bài
lấy nước để cải thiện mức sống cho nông dân nhưng nguồn nước ấy lại quá đắt với
họ. Và chưa có câu trả lời rõ ràng từ Cục Thuỷ Lợi Hoàng Gia Thái là bằng cách
nào nông dân có thể trả tiền điện để bơm lấy nước từ Sông Mekong, trong khi giá
lúa gạo mà họ sản xuất ra thì vẫn rẻ mạt so với giá thị trường. Sự thịnh vượng
như hứa hẹn thì chưa tới đâu nhưng dự án ấy đã gây ra bao nhiêu phiền toái làm
xáo trộn cuộc sống vốn đang an bình của cư dân địa phương.
Với cư dân Hạ nguồn. Cho dù ban đầu, Thái cho biết chỉ bơm lấy nước từ Sông Mekong
trong mùa mưa lũ (flooding / rainy season) nhưng rồi trong thực tế họ vẫn liên
tục lấy nước Sông Mekong cả trong mùa khô từ tháng 2 tới tháng 5 năm. Đây là
một chiến dịch liên tục lấy nước “thầm lặng” mà không có thông báo chính thức
gì cho cộng đồng quốc tế và các quốc gia dưới nguồn.
Điều này phần nào giải thích được tại sao, mới đây vào mùa lũ đã
không còn nguồn nước lũ đủ mạnh từ dòng chính Sông Mekong chảy ngược từ con
sông Tonle Sap vào Biển Hồ như trái tim của Cam Bốt đang thoi thóp; và ĐBSCL
vào mùa mưa lũ đã không còn Mùa Nước Nổi và đến mùa khô thì nguồn nước cạn kiệt
và cả một vùng châu thổ lâm cảnh đại hạn.
Những sự kiện được ghi nhận từ ĐBSCL năm nay 2016: mực nước hai
con Sông Tiền Sông Hậu đã xuống tới mức thấp nhất từ 90 năm qua kể từ 1926 và
mức độ nhiễm mặn thì trầm trọng hơn đã tiến sâu và rất xa tới gần sát biên giới
Việt Nam và Cam Bốt.
NGUỒN NƯỚC PHẢI ĐƯỢC CHIA XẺ CÔNG BẰNG
Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, và Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh
Cầm đại diện cho Việt nam đã vi phạm một sai lầm chiến lược khi đặt bút ký Hiệp
ước Sông Mekong 1995 là từ bỏ quyền phủ quyết / veto power. Nhưng điều ấy không
có nghĩa là các quốc gia thành viên thuộc Uỷ Hội Sông Mekong / Mekong River
Commission [MRC] có toàn quyền khai thác nguồn nước Sông Mekong chỉ để phục vụ
cho quyền lợi của riêng mình. Bất cứ dự án nào như xây đập thuỷ điện, chuyển
dòng lấy nước từ Sông Mekong đều phải thông báo cho các quốc gia lân bang như Việt
Nam, Cam Bốt và Lào. Do đó Dự án KLCM không thể chỉ đơn thuần là quyết định của
Cục Thuỷ Lợi Hoàng Gia Thái nhưng đó còn là trách nhiệm của Uỷ Ban Sông Mekong
Thái Lan / Thái National Mekong Committee — là một trong 4 thành viên của MRC.
Cũng vẫn theo Tinh thần của Hiệp ước Sông Mekong 1995, mọi kế hoạch khai thác
tài nguyên Sông Mekong phải là những bước Phát triển Bền vững / Sustainable
Development trong bối cảnh toàn vùng, trong ý nghĩa đó thì phải có những bảo
đảm nguồn nước Sông Mekong phải được chia xẻ công bằng cho mỗi quốc gia trong
lưu vực.
Điều 7 trong “Hiệp Ước Hợp Tác Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông
Mekong” 1995: Các quốc gia thành viên ký kết cùng
đồng ý là “bằng mọi cố gắng phòng tránh, làm nhẹ hay giảm thiểu những hậu quả
tác hại trên môi trường, đặc biệt là lượng và phẩm chất nước, những điều kiện
của hệ thuỷ sinh học, và sự cân bằng sinh thái của dòng sông, do phát triển và
xử dụng Lưu vực Sông Mekong.”
Theo tinh thần đó, các dự án khai thác Sông Mekong vẫn phảo trải
qua thủ tực tham vấn PNPCA: thông báo, tham vấn trước, và chuẩn thuận — có
nghĩa là được sự đồng ý của các nước thành viên trong Uỷ Hội Sông Mekong
MRC.
Nhưng trong thực tế hiện nay, như chúng ta đã thấy, trên nửa
khúc Sông Mekong thượng nguồn Bắc Kinh đã ngang ngược xây một chuỗi những con
Đập Bậc Thềm Vân Nam, bất chấp mọi ảnh hưởng ra sao với các quốc gia dưới
nguồn. Rồi tới hai nước nhỏ Hạ Lưu là Thái Lan và Lào cũng ngang ngược không
thua gì Trung Quốc. Thái Lan vẫn liên tục chuyển dòng lấy nước từ Sông Mekong,
Lào thì vẫn không ngừng khai thác chuỗi 9 con đập dòng chính Sông Mekong bất
chấp mối quan tâm lo ngại của hai quốc gia dướ nguồn là Cam Bốt và Việt Nam.
MỘT MẠNG LƯỚI TUỲ VIÊN MÔI SINH
Trước nguy cơ một ĐBSCL – vốn là vùng châu thổ phì nhiêu, vựa
lúa gạo của cả nước, đang có dấu hiệu bị tan rã và chết dần; ngoài một vài
tiếng nói phản đối rất đơn lẻ và yếu ớt như một chiếu lệ, Việt Nam vẫn chưa hề
có một chiến lược chỉ đạo bảo vệ nguồn tài nguyên Sông Mekong nói chung và cũng
là kế hoạch cứu nguy cho ĐBSCL nói riêng. Uỷ Hội Sông Mekong MRC trong đó có Uỷ
Ban Mekong Việt Nam đã chứng tỏ là bất lực và hầu như vô hiệu.
Chúng ta chưa thể nào quên tấn bi hài kịch tháng 3, năm 2016 khi
“Thủ tướng Việt Nam Cứu nguy
ĐBSCL” bằng cách lên
tiếng kêu gọi Trung Quốc gia ơn xả nước từ con Đập thuỷ điện Cảnh Hồng để cứu
hạn cho ĐBSCL.Và kết qủa ra sao thì câu trả lời là thảm cảnh một số nông dân
Miền Tây do thiếu nước đã phải bỏ ruộng đất ra đi lang thang để kiếm sống.
Với “cuộc chiến môi sinh” đang thầm lặng diễn ra, cho dù có muộn
nhưng đây chính là lúc Việt Nam cần vận dụng toàn sức mạnh về chính trị, ngoại
giao và cả quân sự nữa để cứu nguy cho cả một vùng đất đai trù phú của đất nước
và một Nền Văn Minh Miệt Vườn đang đứng trước nguy cơ bị tiêu vong.
Hình 4: Cảnh khô hạn nơi
Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nguồn: VNExpress, ngày 11.3.2016
Cách đây ngót hai thập niên, người viết đã đề nghị thành lập một
Phân khoa Sông Mekong như một “think tank” nơi Đại học Cần Thơ, nhưng rồi được
biết mọi quyết định đã bị “nghẽn mạch” ngay từ Hà Nội. Kế hoạch gì thì cũng
phải xuất phát từ Hà Nội. [sic]
Hiện nay chúng ta, người dân Việt Nam biết rất ít những bước huỷ
hoại đang âm thầm diễn ra trên suốt dòng chảy Sông Mekong.
TS Lê Anh Tuấn thuộc Đại Học Cần Thơ, đã phản ảnh rất rõ tình
trạng thiếu thông tin này khi trả lời cuộc phỏng vấn của ký giả Hoàng Hương,
Tuần Việt Nam; ông nói: “Tôi đã tiếp xúc nhiều quan chức và
nhà khoa học trong khu vực và ở Việt Nam, có nhiều dự án trên Sông Mekong họ
không được biết hoặc biết với thông tin rất mù mờ. Cộng đồng nông dân/ngư dân
thường là những đối tượng bị tác động trực tiếp, nhưng không ai đứng ra công bố
rõ ràng và đầy đủ và lấy ý kiến tham vấn với họ.”
Vậy thì ai có khả năng thâu thập những thông tin ấy? Tình
cảnh một nhà báo tự do ở hải ngoại như Tưởng Năng Tiến, một giáo sư môi sinh từ
Đại Học Cần Thơ như TS Lê Anh Tuấn, đã phải dùng từ ngữ “xâm nhập” khi tới thăm
hiện trường xây đập con Don Sahong vì tới những nơi ấy không phải không có hiểm
nguy, không được bảo vệ vì là vùng cấm.
Hình 5: TS Lê Anh Tuấn,
trong chuyến du khảo trên sông Loei một phụ lưu Sông Mekong. Nguồn: TVN
Tình trạng thiếu minh bạch – no transparency, dấu diếm
thông tin về các khu xây đập, khai thác nguồn nước Sông Mekong từ Vân Nam Trung
Quốc xuống tới Lào, những nơi ấy được bảo vệ như những trọng điểm chiến lược,
như các căn cứ quân sự. Chính bản thân người viết đã trải qua kinh nghiệm này
khi tới thăm con đập Manwan/ Mạn Loan trên Vân Nam, con đập dòng chính đầu tiên
trên Sông Mekong của Trung Quốc.
Vậy thì ai có quyền “đặc miễn” để có thể tiếp cận với những cứ
điểm ấy nếu không phải là cấp tuỳ viên của các Toà Đại sứ. Nếu đã có những tuỳ
viên văn hoá, tuỳ viên quân sự, tại sao không có “tuỳ
viên môi sinh” nơi 6
quốc gia trong lưu vực Sông Mekong. Nhiệm vụ của mỗi tuỳ viên môi sinh ấy là
tiếp cận, theo dõi và thu thập thông tin cập nhật về các bước khai thác trên
suốt dọc Sông Mekong. Họ phải là thành viên không thể thiếu trong Toán
Đặc Nhiệm / Task Force liên
bộ của Việt Nam trong nỗ lực bảo vệ Sông Mekong và cứu nguy ĐBSCL. Đây như một
đề nghị cấp thiết gửi tới Bộ Trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh, kiêm Phó Thủ
tướng và cũng là Uỷ viên Bộ Chính Trị, ông cũng từng đảm nhiệm chức Phó Chủ
tịch Ủy ban Sông Mekong Việt Nam năm 2010.
NGÔ THẾ VINH
California, 10.10.201
______
Tham khảo:
1/ $17 Billion Project Proposes Changing Course of Asia’s Mekong
River, VOA’s Khmer Service, by Neou Vannarin, September 16, 2016
2/ Water Diversion: A
Re-emerging Threat to Mekong Water Security,
by Hoang Duong, July 29/2016, https://www.internationalrivers.org/blogs/259/water-diversion-a-re emerging-threat-to-mekong-water-security
3/ Diverting the Mekong River into Thailand: The
Khong-Loei-Chi-Mun project. Mekong Commons. Environmental Justice, June 6, 2016
4/ Mekong – Cửu Long 2011,
A Look Forward Into The Next Half Century, by Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation,http://vietecology.org/Article.aspx/Article/61#
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét