-
9-12-2018
Ông Hai Nhật hưu, bắt đầu sống đời sống của một con chuột. Mặc dù ẩn mình trong những căn biệt thự xa hoa, di chuyển trong những chiếc xe hơi đắt tiền, trước nhà vẫn có bốt gác, xung quanh vẫn có lâu la… nhưng vẫn là chui nhủi kiếp sống của một con chuột.
So với trước kia, ông là con bò rống giữa hội nghị, là con rắn phì khói trước con mồi, là ông trời con trong một vùng lãnh thổ, là gã nai giả vờ ngơ ngác… thì bây giờ, dấu vết của một thời quyền lực và vơ vét đã khiến ông trở thành con chuột, còn không bằng con chuột, bởi con chuột vẫn có quyền yên ổn ở trong hang của nó.
Nhưng tài sản khổng lồ đã biến thành những ngôi mả chướng, chôn sống ông từng ngày, từng giờ… Oán hờn chồng chất đã biến khí trời thành độc dược, biến ánh sáng thành kim châm, biến bóng đêm thành hầm lửa… Người người nguyền rủa, đời đời nguyền rủa.
Nó kết tinh thành gió chướng, thành siêu côn trùng, thành ám khí, nhỏ hơn hạt bụi, nhẹ tựa hư không. Nó luồn qua hàng rào, chui qua tường vách, xuyên qua cửa kính dày… Nó bám riết lấy ông, ngày cũng như đêm, lúc ăn cũng như lúc ngủ… Không gì cản nổi nó, trốn trời có thể khỏi nắng nhưng không thể trốn khỏi lời nguyền.
Nó khiến ông khốn khổ, tâm thần lúc nào cũng hoảng hốt như sắp có đại tang, mình mẩy suốt ngày ngứa mà không biết gãi chỗ nào, rát mà không biết rát từ đâu, toàn thân hầm hập như phải bỏng mà sờ vào lạnh ngắt như chạm phải tử thi. Sắc diện ông còn quái lạ hơn nữa, ngày mấy lần thay đổi, một bước đi là một bước chuyển màu. Ra ánh sáng thì xanh lét như tượng đồng, vào chỗ tối thì trắng bệch như ma trơi… kinh không thể tả.
Nó khiến ông khốn khổ, tâm thần lúc nào cũng hoảng hốt như sắp có đại tang, mình mẩy suốt ngày ngứa mà không biết gãi chỗ nào, rát mà không biết rát từ đâu, toàn thân hầm hập như phải bỏng mà sờ vào lạnh ngắt như chạm phải tử thi. Sắc diện ông còn quái lạ hơn nữa, ngày mấy lần thay đổi, một bước đi là một bước chuyển màu. Ra ánh sáng thì xanh lét như tượng đồng, vào chỗ tối thì trắng bệch như ma trơi… kinh không thể tả.
Bác sĩ tốt nhất nhì thành phố được triệu đến, cát sê bằng cả một gia tài được đưa ra, với những thiết bị xét nghiệm tối tân, có thể nom rõ vũ điệu của bầy vi rút gây chứng hắt hơi, hay phát hiện mùi hôi của loài tiểu trùng gây bệnh thổ tả… thì cũng chịu, không lần nổi dấu vết của loài tinh linh sinh ra từ nguyền rủa, nhỏ hơn hạt bụi, nhẹ tựa hư không kia. Mọi chỉ số sinh lý vẫn bình thường, tóm lại là y học hiện đại phải bó tay, nghĩa là không bệnh tật gì. Các thái tử, thái tôn, công tằng, tôn nữ… họ hàng nhà Hai Nhật cuống cuồng nghĩ tới tiên sinh Quách Tử bên Chợ Lớn. Phải cầu đến ông thầy này thôi.
Quách Tử gốc ba Tàu, huyết thống ba Tàu, vốn là lão nhân gia chiếu vận trong gia đình Hai Nhật. Nhân duyên mèo mả gà đồng kết giao từ hồi xem tướng cho ông Hai, bấy giờ mới là một thằng thợ tiện. Quách Tử bảo toàn quý tướng hà, nhất điểu nhãn, nhì thổ nhĩ, tam ngưu tị, tứ thiệt lang. Tướng này phú quý không để đâu cho hết.
Vốn từng có người nhận xét tướng mình tiểu nhân đểu giả, cho nên gã thợ tiện tưởng lão thầy tướng nói đểu mình. Ai dè cơ trời xoay chuyển, váng sữa đổi màu, Hai Nhật cứ theo nước mà trôi, theo thuyền mà nổi, ngoài thì uốn lượn như con công, trong thì rình mò như con cú. Thế rồi hoạn lộ hanh thông, phú quý nối đuôi nhau, tuần tự mà đến.
Đường ăn thì từ chỗ đáng mười chỉ ăn có một mà vẫn còn phải lo, đến chỗ đáng mười mà ăn cả trăm, cả ngàn vẫn chả phải sợ thằng nào. Đường nói thì từ chỗ biết mười chỉ nói có một cũng chưa chắc có ai thèm nghe, đến chỗ biết mười mà nói đến trăm vạn cũng chẳng ai dám cãi… Lão ba Tàu họ Quách quả nhiên xem tướng như thần, từ khi Hai Nhật bắt đầu chui vào hàng quan tước, thì họ Quách đã trở thành lão nhân gia bọc mệnh cho gia tộc nhà Hai Nhật.
Quách Chợ Lớn được thỉnh đến, chứng kiến nỗi hoảng hốt và diện mạo quái dị của Hai Nhật thì cũng hết sức kinh ngạc, biết việc này tất không phải do bệnh tật hay khí huyết… gây ra, bèn vận công phu để truy tìm thủ phạm. Nguyên lúc này, Quách lão nhân gia đã luyện thành thục bốn món công phu, y chỉ trên bốn địa nghiệp căn bản của lão.
Món thứ nhất gọi là “địa mục”, mắt có thể nhìn thấy ma quỷ, bất cứ hạng nào… món thứ hai gọi là “đế thính”, tai có thể nghe được ý nghĩ, từ người, súc sinh, ngạ quỷ cho đến địa ngục… món thứ ba gọi là “cẩu tị”, mũi có thể ngửi mùi bổng lộc, phân biệt tuổi vàng, thau… món thứ tư gọi là “thiệt xà”, lưỡi có thể phóng ra, nếm vị thức ăn trên bàn tiệc ở cách xa trăm dặm… Với bốn món công phu ấy thì không loài yêu tinh, quỷ quái nào có thể che giấu được lai lịch.
Nhưng lần này thì họ Quách bất lực, vận hết công phu, ngửi đủ mười phương, nếm từ xa tới gần… vẫn tuyệt không thấy bóng dáng hay mùi vị… của loài ma quỷ nào đang quấy phá Hai Nhật. Bất lực nhưng không bó tay, bởi họ Quách biết rằng nếu không phải do ma quỷ, gọi là chúng dị phần, là những oan gia trái chủ đã mạng chung gây ra, thì chắc chắn phải do oán khí của những người còn đang sống, gọi là chúng đồng phận kết thành. Chuyện này tất phải dùng đến món bảo bối gọi là “thi khí” của nhà họ Quách truyền lại. Quách lão nhân gia nghĩ vậy rồi bảo Hai Nhật cùng đám con cháu, lâu la hãy chờ, y tất sẽ có cách chữa trị.
Nguyên tổ của Quách Tử ngày trước là người không cha không mẹ nên vào làm con nuôi nhà họ Quách. Bấy giờ vào thời Xuân Thu, tổ họ Quách là Quách Yển nổi tiếng giỏi về thuật bói toán, có hai quyển sách quý, một quyển là “thiên hoãn thư”, dạy phép thỉnh tiên về để đàm đạo, một quyển là “địa khấu thư”, dạy phép gọi quỷ về để chỉ đường. Quách Yển cất trong một chiếc hòm kín, cẩn thận để quyển thiên hoãn xuống dưới, quyển địa khấu đè lên trên.
Tổ của Quách Tử rình biết vị trí của chiếc hòm, bèn lấy trộm quyển ở trên, tức là quyển địa khấu rồi trốn khỏi nhà họ Quách. Sách địa khấu được truyền ra bên ngoài, từ đó người Tàu mới học được từ cách gọi ma, vấn quỷ… cho đến cướp ruộng, cướp đất, cướp lãnh thổ… Truyền đến Quách Tử là đời thứ 99.
Quách Tử cũng từng đem thuật cướp đất trong sách này ra dạy cho Hai Nhật. Món bảo bối “thi khí” cũng chép trong sách ấy. Quách Tử trở về nhà bắt tay vào chế bảo bối để Hai Nhật mỏi mòn trông đợi, suốt ngày giam mình trong bốn bức tường, không dám thò mặt ra ngoài vì sợ thiên hạ nom thấy cái tướng ma tươi quỷ sống của mình.
Mấy tháng sau mới luyện xong “thi khí”. Quách tiên sinh gọi một đệ tử tên là Tạ Di Hầu, sai mang đến dinh Hai Nhật. Nói “dinh” là chỉ chỗ ở, còn “phủ” là chỉ chỗ ngồi, bây giờ chỗ đó đã có người khác ngồi, thực ra hai chữ này dùng đảo lộn nhau, thế nào cũng được.
Hai Nhật mở hộp đựng “bảo bối” ra, chỉ thấy bên trong một bộ đồ vàng xỉn, nom vừa xấu xí vừa tởm không thể tả. Nhưng “bảo bối” của lão nhân gia thì không thể xem thường, bèn mặc thử xem sao. Món “thi khí” quả nhiên kì diệu, chỉ một lát sau, thần sắc Hai Nhật trở lại hồng hào, bao nhiêu nỗi ngứa ngáy, hoảng hốt, bứt rứt… tiêu tan bằng hết, Hai Nhật mừng lắm, thưởng ngay cho Tạ Di Hầu một món lớn, dặn chuyển lời về tạ ơn họ Quách. Di Hầu mừng rỡ, trở về đem kết quả báo cáo với sư phụ. Quách tiên sinh lẳng lặng không nói gì.
Hai Nhật lại bắt đầu xuất hiện, dự các buổi tiệc tùng, nhận huy chương…
(Còn nữa…)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét