Vietnam – Cali Today news – Việt Nam đang ngập ngụa trong nợ. Nợ nước ngoài lẫn nợ trong nước. Cả hai thứ nợ này đều có cơ hội nhấn chìm toàn bộ ngân sách quốc gia vốn ngày càng eo hẹp cả tiền trả lương cho đội ngũ gần 3 triệu công chức với “30% trong số đó bị coi là “không làm gì cả những vẫn đều đều lãnh lương”.
Ảnh: Nhịp Cầu Đầu Tư |
Con số nợ trong nước mới nhất được nêu ra là từ Ngân hàng thế giới (WB) và Bộ Tài chính Việt Nam. Theo đó, có tới phân nửa các khoản nợ trong nước của Chính phủ sẽ đáo hạn trong 3 năm tới. Dù báo cáo không đưa ra con số cụ thể số tiền phải trả, nhưng theo Bản tin nợ công số 5 (năm 2015) vừa được Bộ Tài chính công bố, nợ trong nước của Chính phủ tới hết năm 2015 còn hơn 54,6 tỷ USD (tương đương hơn 1,19 triệu tỷ đồng); nợ Chính phủ bảo lãnh vay trong nước hơn 9,4 tỷ USD (tương đương hơn 207,45 nghìn tỷ đồng); nợ chính quyền địa phương vay trong nước hơn 3,3 tỷ USD (tương đương hơn 73,6 nghìn tỷ đồng). Với phân nửa số nợ trên sẽ đáo hạn trong 3 năm tới, khi đó ngân sách nhà nước sẽ phải dành ra hơn 738 nghìn tỷ đồng (trên 33,6 tỷ USD) để trả nợ vay trong nước (chưa kể các khoản vay nước ngoài tới hạn).
Như vậy, số nợ trong nước mà ngân sách trung ương phải có trách nhiệm trả cho mỗi trong 3 năm tới sẽ vào khoảng 11 tỷ USD.
Nguồn cơn chính dẫn đến nợ trong nước đã được tích tụ từ thời “phá chưa từng có” của Thủ tướng tướng Nguyễn Tấn Dũng. Vào thời gian đó, Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ ồ ạt phát hành “trái phiếu đặc biệt” để hút tiền mặt từ các ngân hàng thương mại cổ phần. Lượng phát hành trái phiếu chính phủ giai đoạn 2011-2015 đã tăng gấp 2,5 lần giai đoạn 2006-2010, chủ yếu phát hành cho khối ngân hàng thương mại. Sau một thời gian đủ dài, các khoản lãi và một phần nợ gốc phải trả trong ngắn hạn đã tăng cao và tăng đột ngột trong thời gian gần đây, gây sức ép mạnh lên cân bằng ngân sách nhà nước. Trong một vòng luẩn quẩn, chính phủ lại phải liên tục phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước. Hậu quả là từ năm 2014, một lượng lớn trái phiếu chính phủ đến hạn thanh toán, trong lúc chính phủ lại phải liên tục phát hành trái phiếu chính phủ mới do ngân sách nhà nước không thể đáp ứng. Cũng hệ quả là quy mô nợ công tăng theo tần suất và quy mô phát hành trái phiếu chính phủ. Còn giờ đây và những năm tới, nhiều khoản phát hành trái phiếu sẽ đến kỳ đáo hạn và dù ngân sách không còn tiền thì vẫn phải cố mà in thêm tiền để trả nợ cho các ngân hàng thương mại, cho dù mới đây WB đã một lần nữa khuyến cáo Việt Nam không nên in tiền quá nhiều.
Thế nhưng những khoản phải trả cho nước ngoài thì đương nhiên không thể bằng tiền Việt, mà phải bằng ngoại tệ mạnh.
Vào năm 2015 và là lúc Nguyễn Tấn Dũng tạm “hạ cánh an toàn” sau khi để lại một núi nợ khổng lồ cho quốc gia và dân tộc, ngân sách Việt Nam đã phải xuất ra đến 20 tỷ USD để trả nợ cho nước ngoài. Những năm sau đó, bình quân mỗi năm Việt Nam phải trả nợ hàng chục tỷ USD cho nước ngoài.
Cộng các khoản nợ trong nước và nước ngoài, ngân sách Việt Nam sẽ phải trả nợ bình quân trên 20 tỷ USD cho mỗi trong 3 năm tới, và trong 3 năm sẽ phải trả trên 60 tỷ USD.
Hẳn đó là lý do mà vào đầu năm 2017, sau những cuộc bàn cãi gây gắt, Chính phủ Việt Nam đã phải tìm cách từ chối nợ vay nước ngoài của khối doanh nghiệp nhà nước mà không đưa loại nợ này vào nợ công quốc gia, dù theo quy định của Liên hiệp quốc thì nợ vay nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước là một thành phần của nợ công quốc gia.
Vậy nợ của các doanh nghiệp nhà nước là bao nhiêu?
Từ năm 2011 đến năm 2015 và với đà vay mượn nước ngoài tăng tiến không ngừng nghỉ, nợ công đã tăng và nợ vay của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước cũng tăng chóng mặt.
Theo một phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang Việt – cựu chuyên viên tài chính của Liên hiệp quốc – vào đầu năm 2017 ngay trên một tờ báo nhà nước là Thời báo Kinh tế Sài Gòn, nợ của 3.200 doanh nghiệp nhà nước theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4,9 triệu tỉ đồng (231 tỉ đô la Mỹ), gấp nhiều lần con số 1,5 triệu tỉ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của doanh nghiệp nhà nước là 324 tỉ đô la Mỹ, bằng 158% GDP.
Như vậy, cộng cả nợ chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỉ đô la Mỹ, bằng 210% GDP, vượt rất xa báo cáo “nợ công chưa đụng trần 65% GDP” của Chính phủ.
Gần đây, ngay cả một số tờ báo nhà nước chuyên về kinh tế cũng đã phải hé ra sụ thật về nợ công quốc gia. Gần nhất, tờ Nhịp Cầu Đầu Tư viết:
“Nợ công của Việt Nam có thể đã lên tới hơn 200% GDP, đã vượt quá chỉ tiêu an toàn nợ là 65% GDP, nếu tính đầy đủ theo thông lệ quốc tế, bao gồm nợ của ngân hàng trung ương và các đơn vị công lập khác.
Nếu như năm 2001, Việt Nam vay World Bank khoảng 23.900 tỷ đồng thì tới năm 2015 đã là hơn 274.000 tỷ đồng, tức là gấp khoảng 11,5 lần. Tương tự, với Ngân hàng Phát triển châu Á, nợ của Chính phủ với nhà tài trợ này đã tăng hơn 20 lần trong quãng thời gian trên (từ 7.500 tỷ đồng lên hơn 151.000 tỷ đồng).
World Bank định nghĩa nợ công không chỉ là nợ chính phủ, nợ chính quyền địa phương, nợ chính phủ bảo lãnh mà còn bao gồm nợ ở ngân hàng trung ương, các tổ chức công lập, các doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là các khoản chính phủ đã cam kết chi trả như lương hưu, bảo hiểm”.
Vào chính lúc này, ngân sách có nhiều dấu hiệu cạn kiệt, cụ thể là chẳng còn khoản kết dư đáng kể nào, cũng là lúc đang có nhiều dấu hiệu cho thấy nợ công sắp “vỡ” và Chính phủ không còn khả năng nào để trả nợ thay cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước.
Thiền Lâm
(Cali Today news)
Ngân sách khốn quẫn: điều tất yếu phải đến?
Tình trạng ngân sách nhà nước rơi vào cảnh bí bách chẳng phải là điều mới mẻ gì, mà đó là thực tế công chúng Việt Nam đã biết đến từ vài năm gần đây.
Hội chứng “hết tiền trả lương”
Sự kiện đầu tiên báo hiệu tình trạng ngày một xấu đi này diễn ra vào cuối tháng 11 năm 2015, khi một loạt tờ báo “chính thống” đồng loạt chạy những hàng tít như “Thành uỷ Bạc Liêu hết tiền hoạt động”, hay thậm chí còn bi đát hơn: “Thành ủy Bạc Liêu không chỉ hết tiền mà còn... nợ nần chồng chất.”
Câu chuyện Thành uỷ Bạc Liêu vỡ nợ chưa kịp lắng xuống thì dư luận lại rộ lên trước thông tin về thực trạng tương tự ở Cà Mau, khi không chỉ UBND TP Cà Mau nợ đầm đìa, không còn tiền trả lương cho công chức, mà cả huyện Cái Nước cũng hết tiền chi lương, phải cầu cứu ngân sách tỉnh.
Hai sự kiện xẩy ra liên tiếp này tuy khiến dư luận bàn tán xôn xao, nhưng không khiến người ta phải quá ngạc nhiên, bởi chỉ hơn một tháng trước đó, Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư Bùi Quang Vinh đã “bộc bạch” trong một tâm trạng đầy ưu tư tại phiên thảo luận tổ của các ĐBQH: “Cả nước ngân sách Trung ương chỉ còn 45.000 tỷ đồng. Với mức này không biết để làm cái gì, chưa nói để trả nợ với các thứ.”
Lo sợ tình trạng nợ lương công chức sẽ gây ra phản ứng dây chuyền cùng những tác động tiêu cực khó lường trong xã hội nên chỉ ít ngày sau hai vụ lùm xùm ở Bạc Liêu và Cà Mau, Bộ Tài chính đã cấp tốc gửi công văn xuống các địa phương, yêu cầu không để xảy ra tình trạng nợ lương cán bộ, công chức, viên chức. Cơ quan quản lý ngân khố quốc gia thậm chí còn “vẽ đường” cho các địa phương như giãn tiến độ hoặc tạm dừng thực hiện các khoản chi chưa cần thiết; sử dụng thêm các nguồn lực tài chính của địa phương như quỹ dự trữ tài chính, v.v.; và nếu thực hiện các giải pháp trên mà ngân sách địa phương vẫn khó khăn thì cần báo cáo bằng văn bản lên cấp trên, để cho phép tạm ứng nguồn chi.
Tuy nhiên, sau công văn chỉ đạo nói trên của Bộ Tài chính chỉ mươi hôm, báo chí lại loan tin về việc UBND xã Thạch Khê, Thạch Hà, Hà Tĩnh suốt hai tháng liền không có tiền trả lương cho cán bộ, công chức. Và cũng ở huyện Thạch Hà, mấy tháng sau vụ xã Thạch Khê nợ lương lại đến lượt xã Thạch Văn lên mặt báo vì nợ lương công chức.
Và chỉ cách đây vài hôm, báo chí lại rộ lên thông tin là cán bộ, công chức tại một số xã, phường trên địa bàn TP Vĩnh Long đã không được nhận lương từ nhiều tháng qua.
Nợ lương công chức vốn dĩ là một chủ đề “nhạy cảm”, nên những gì được phơi bày trên mặt báo mới chỉ là phần nổi của tảng băng.
Công an cũng không thoát
Công an là lực lượng mà giới lãnh đạo cộng sản thường ví là “thanh gươm của đảng”. Một trong những khẩu hiệu mang tính chất “kim chỉ nam” của đội quân hùng hậu này là: “Công an nhân dân chỉ biết còn đảng, còn mình.” Điều này giải thích tại sao bộ máy công an luôn nhận được sự đãi ngộ đặc biệt và không ngừng phình ra, còn chế độ CSVN vẫn được gọi là chế độ “công an trị”.
Tuy nhiên, tình trạng ngân sách khốn khó cũng đã tác động đến lực lượng công an, đội quân kiêu binh mà xưa nay đảng vẫn dùng tiền để mua sự trung thành và tưởng như “bất khả xâm phạm”. Chẳng hạn, trước kia cán bộ công an mỗi khi được điều động đi làm nhiệm vụ bên ngoài đều được nhận một khoản hỗ trợ khá hậu hĩnh (thường là 500.000VNĐ/ngày), nhưng nay khoản này hầu như bị cắt hẳn.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, nhiều cán bộ ngoại giao làm việc tại các nước là sỹ quan tình báo từ Tổng cục V, Bộ Công an “biệt phái” sang. Trước đây, cán bộ cấp lãnh sự (thường là sỹ quan tình báo biệt phái), đều được nhận thêm trợ cấp cho vợ (hoặc một người giúp việc), với mức trợ cấp bình quân mỗi tháng từ 400 đến 600USD, bất kể người vợ có sống cùng chồng tại nơi công tác hay không. Tuy nhiên, khoảng hơn một năm nay, khoản trợ cấp đó đã không còn.
Xin dẫn thêm một ví dụ từ Bắc Ninh, một tỉnh giàu có nằm ngay cửa ngõ thủ đô và đang phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc trung ương vào năm 2020.
Trong cuộc cưỡng chế đất tại phường Đồng Kỵ, thị xã Từ Sơn ngày 22/12/2016, khoảng 450 cảnh sát đã được điều động để trấn áp bà con dân oan. Sau cuộc cưỡng chế, ngoài bữa ăn trưa, mỗi viên cảnh sát còn được nhận khoản “bồi dưỡng” 500.000VNĐ. Tất cả các khoản chi đều được lấy từ ngân sách công an. Tuy nhiên, cuộc cưỡng chế đất cũng tại phường Đồng Kỵ ngày 20/9 vừa qua thì chỉ khoảng 350 cảnh sát được huy động. Và sau cuộc cưỡng chế, đội quân chuyên đàn áp dân đen đã không còn được nhận khoản “bồi dưỡng” mà bình thường họ vẫn nhận. Họ vẫn được ăn trưa, nhưng khoản chi đó cũng không phải được trích từ ngân sách công an, mà từ Trung tâm Quỹ đất tỉnh.
Điều tất yếu phải đến?
Những hiện tượng nêu trên chỉ là “triệu chứng ngoài da” của một “con bệnh” mà ngay từ khi chào đời đã bộc lộ những bất ổn bên trong. Như một lẽ tự nhiên, càng ngày khả năng cầm cự của nó càng kém.
Tại hội nghị tổng kết công tác tài chính - ngân sách đầu năm 2017, lần đầu tiên Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phải thú nhận những thực tế đáng báo động như “Nợ công nếu tính đủ đã vượt trần”, “Chi thường xuyên tăng rất nhanh khiến ngân sách căng thẳng” hay “Nếu không chấm dứt tình trạng này, sự sụp đổ nền tài khóa quốc gia không thể tránh khỏi”.
Trong cuộc làm việc với Bộ GTVT ngày 16/3, người đứng đầu chính phủ cũng đã cảnh báo cơ quan quản lý hạ tầng quan trọng này là vốn ngân sách đang ở vào tình trạng cực khó.
Và trong phiên thảo luận tổ sáng 24/10 vừa qua, Tổng Kiểm toán Nhà nước Hồ Đức Phớc đã bày tỏ sự lo ngại về tình hình tài chính quốc gia: “Nền tài chính chúng tôi thấy không được bền vững. Sau này bán hết vốn nhà nước thì nhiệm kỳ sau lấy gì mà chi tiêu, kể cả chi thường xuyên, tiêu dùng cũng là khó.”
Đâu là giải pháp?
Trước thềm Hội nghị Trung ương 6, cựu TBT Lê Khả Phiêu đã nhận định là yêu cầu tinh gọn bộ máy hiện “không còn đường lùi”. Tổng số công chức biên chế của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay là 3.734.302 người, tức chiếm đến 4% dân số, gấp tới gần 6 lần so với tỷ lệ công chức/dân số ở Mỹ (chỉ 0,68%). Chưa hết, nếu cộng toàn bộ số người hưởng lương và mang tính chất lương thì số người mà ngân sách nhà nước phải “cõng” trên lưng lên tới con số 11 triệu.
Không một quốc gia nào, dù giàu có đến đâu, có thể nuôi nổi một đội quân khổng lồ như thế bằng tiền thuế của dân.
Cách đây mấy năm, dư luận đã tá hoả trước thông tin một xã nghèo với 9.500 dân ở Thanh Hoá nhưng lại có đến… 500 cán bộ. Và đây không phải là trường hợp cá biệt trên 63 tỉnh thành tại Việt Nam.
Thực ra, không phải bây giờ ban lãnh đạo CSVN mới kêu gào “tinh giản biên chế” hay “tinh gọn bộ máy”, mà vấn đề này đã được đặt ra ngay từ thời họ còn ở “thủ đô kháng chiến” Việt Bắc. Từ đó đến nay, đây là một trong những “điệp khúc” mà công chúng Việt Nam được nghe nhiều nhất, song tình hình lại ngày một trầm trọng hơn.
Lần này cũng vậy, số lượng biên chế hay số cơ quan trong hệ thống chính trị không thể nào giảm được chỉ bằng cách kêu gào, hay bằng “quyết tâm chính trị” kiểu cộng sản.
Trong bối cảnh áp lực nợ công ngày một lớn, động lực tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên và nhân công giá rẻ đang đuối dần, mức độ ưu đãi của các khoản vay từ các đối tác phát triển (World Bank, ADB hay IMF…) hầu như không còn, gánh nặng bộ máy đảng - chính quyền - đoàn thể tiếp tục chồng chất trên lưng người đóng thuế, ngân sách nhà nước ngày càng khốn quẫn, ban lãnh đạo Việt Nam xem ra chỉ còn giải pháp duy nhất để duy trì tăng trưởng và đảm bảo ổn định xã hội: Cải cách chính trị song hành với cải cách kinh tế.
Ngược lại, nếu vẫn cứ đà này, sự đổ vỡ của nền tài khoá quốc gia kéo theo sự sụp đổ của hệ thống là thực tế khó tránh khỏi. Đó là một cái giá đắt đến đến mức không ai mong muốn.
Lê Anh Hùng
(Blog VOA)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét