Ngờ đâu bảo bối chế bằng “thi khí” của Quách tiên sinh chỉ là vật dùng có thời hạn. Được khoảng ba tháng thì bắt đầu mủn ra, rơi rụng lả tả, chứng cũ lại tái phát, hở chỗ nào mụn đỏ mọc chỗ đấy, ngứa ngáy không chịu nổi, da dẻ lại đổi màu, gãi thì nước vàng chảy ra, tanh hôi không thể tả. Mấy công tử nhà Hai Nhột tức tốc sai người tìm đến Quách tiên sinh. Họ Quách chừng như cũng đoán trước việc ấy, bèn lấy ngay cái hộp đựng bộ “thi khí” khác đã chuẩn bị sẵn, lần này thì đích thân họ Quách mang đi, dắt theo Tạ Di Hầu.
Hinh minh họa |
Thầy trò đến trước dinh Hai Nhột, nhìn lên mà rợn người. Tòa dinh cơ mới hôm nào bề thế, mà nay lá úa, hoa tàn, tường vách tróc lở, cánh cổng rỉ sét như đã bỏ hoang hàng trăm năm. Lúc nào cũng có hàng chục người thợ làm quần quật, sơn sửa lại từ đầu này đến đầu kia, sơn đến chỗ cuối thì chỗ chỗ đầu lại lở… cứ thế mà không hiểu tại sao. Riêng Quách tiên sinh có lẽ biết việc này, bèn vận “địa mục” lên nom kĩ, bỗng rùng mình thấy đám một côn trùng nhỏ hơn hạt bụi, rộng bằng manh chiếu lúc cuộn lại, lúc mở ra… Mắt thường nhìn như hư không, nhưng địa mục thì nhìn thấy rõ, như một làn khói xanh, uốn lượn dưới ánh sáng mặt trời, múa những điệu múa kinh hồn rồi bay vụt vào bên trong dinh, xuyên qua tường đặc, qua cả thép dày cứ như không khí. Quách tiên sinh biết đây là do những oán khí kết thành khói xanh, những nguyền rủa cuốn thành điệu múa, những căm hờn biến thành cơn lốc… đẩy nó đi, tìm đến đúng cái nơi cần phải báo. Đó là thân xác và hồn vía của Hai Nhột.
Hai Nhột vồ lấy bảo bối từ tay Quách tiên sinh, vội vã mặc ngay vào. Chờ cho nó phát huy tác dụng, người ngợm yên ổn rồi mới hớn hở tạ ơn mà hỏi:
“Tiên sinh, bảo bối gì mà nó… chóng hư thế?”
Quách tiên sinh không có ý trả lời, đang mải đảo mắt nhìn quanh căn phòng khách. Vẻ lộng lẫy trước kia thì vẫn thế, nhưng nét bóng lộn, sang trọng thì không thấy đâu nữa. Sàn nhà đổi một màu xám xịt, bàn ghế mốc meo, vẫn còn những dấu vết lau không xuể. Đôi mắt Quách tiên sinh dừng lại ở lọ hoa, những bông hoa nom nhợt nhạt, đồng loạt gục hết cả xuống. Hai Nhột cất tiếng hỏi tiếp:
“Lạ lắm tiên sinh ạ. Từ hôm đó đến nay, nhà này hoa vừa cắm đã héo, bàn ghế vừa lau đã mốc, trần nhà vừa sơn xong đã lở… là cớ làm sao?”
Quách Tử ngửa mặt nhìn lên trần nhà loang lổ. Bỗng rùng mình một cái nữa. Trên đó có bóng một con quỷ đang múa may, uốn lượn, y hệt vũ điệu của đám côn trùng ban nãy ở ngoài cổng. Cái bóng phình ra, thu lại, lúc to, lúc nhỏ, điệu nhảy khi hoãn, khi cấp… khiến Quách Tử chịu không rõ đó là loại quỷ gì. Quách Tử lại phải vận món “cẩu tị” của mình lên, ngửi thấy mùi hăng như cứt gà, lại phóng “thiệt xà” ra nếm thử, thấy vị cay như đít cà cuống, đích thị là loài quỷ Dạ Xoa, do những oan gia trái chủ đã mạng chung, vốn vất vưởng mờ mịt ở ngoài biển Đông, nay tìm về để báo oán. Hai Nhột tuy chưa cảm thấy gì, song tâm thần đã bắt đầu hoảng hốt. Biết trước câu hỏi của Hai Nhột còn chưa kịp thốt ra, Quách tiên sinh đã đánh trống lảng mà bảo một câu lửng lơ hơi có chỗ khó hiểu:
“Của bền tại người, người lành tại phước… Ngài hãy tích cực đi lễ chùa để cầu thêm phước báo. Từ nay nếu ngài ăn chay được thì tốt, nhưng hãy tránh những vị cay…”
Hai Nhột tất nhiên nghe lời rồi hậu tạ cho thầy trò Quách Tử. Về đến nhà rồi, đồ đệ Tạ Di Hầu mới rụt rè thắc mắc:
“Thưa sư phụ, tại sao dinh ông Hai lại tàn tạ nhanh thế? Mới có mấy tháng trời?”
Quách Tử ghé vào tai Di Hầu nói nhỏ:
“Tại cái món “thi khí” ấy đấy”.
Di Hầu trợn mắt kinh ngạc. Chưa kịp hỏi tiếp thì sư phụ lại bảo:
“Ta cũng không giấu mãi nhà ngươi, bởi sắp có việc phải giao cho ngươi đây. Cái gọi là “bảo bối” ấy chẳng qua là những quần áo, vải vóc liệm cho tử thi, đến khi bốc mả, người ta quăng ở ngoài nghĩa địa, ta bí mật nhặt về, giặt giũ rồi chọn những tấm còn lành lặn, may thành quần áo cho Hai Nhột, gọi là “thi khí”…”
Di Hầu lè lưỡi kinh tởm. Lại nhanh nhảu hỏi tiếp:
“Thế tại sao nó ngăn được chứng bệnh ngứa ngáy, đổi màu da của ông ta?”
Quách Tử giảng giải:
“Bí mật ấy có chép trong sách “địa khấu” do Tổ của ta truyền lại. Nguyên chứng bệnh ấy là những oán khí, nguyền rủa… của người đang sống, gọi là “chúng đồng phận” kết thành. Nó nhỏ hơn hạt bụi, nhẹ tựa hư không, uốn lượn như đám côn trùng, nó xuyên qua tường vách, chui vào da thịt… không gì ngăn nổi. Nhưng nó rất kị những thứ liệm cho người chết, chôn ở dưới đất ba năm trở lên…”
Tạ Di Hầu nghe ra, xem chừng đã hiểu. Quách Tử bảo tiếp:
“Ở trong này thường chôn người chết một lần, gọi là hung táng nên không có tục bốc mả. Cho nên người phải ra ngoài Bắc, chờ đến mùa bốc mả, tìm đến các nghĩa địa để thu nhặt “thi khí” về đây. Thứ ấy sẽ còn phải dùng đến rất nhiều.”
Di Hầu vâng lời sư phụ, từ đó cứ đến cuối năm lại nhảy tàu ra Bắc, ngược xuôi như con thoi, “thi khí” đem về chất đống trong kho. Hai Nhột dùng hỏng bộ này, lại có ngay bộ khác thay thế, thầy trò Quách Tử được dịp tha hồ móc vào cái túi không bao giờ cạn của gia tộc nhà Hai Nhột.
Mọi chuyện trôi đi, có chuyện nổi lên, có việc chìm xuồng… Hai Nhột bên trong bọc “thi khí”, bên ngoài khoác comple, mặt mày tươi tỉnh, da dẻ hồng hào đi chùa lễ Phật cầu gia tăng thêm phước, dự hội nghị truyền thống nọ kia… đến nỗi quên béng lời dặn của Quách Tử. Một hôm trong bữa tiệc sơn hào hải vị, có món đỉa biển nom rất hấp dẫn, Hai Nhột vừa gắp đưa lên miệng, thì nó đã chui tọt xuống dạ dày, chỉ kịp cảm thấy có vị hơi cay cay, mới giật mình nhớ lại lời dặn của Quách Tử thì không kịp nữa rồi.
Ở cách xa trăm dặm, Quách Tử vẫn để ý chuyện tiệc tùng của Hai Nhột, bèn vận “thiệt xà”, phóng lưỡi nếm suốt bàn tiệc, phát hiện có món đỉa cay ấy, chưa kịp cảnh báo thì Hai Nhột đã nuốt gọn rồi. Âu cũng là cái “số” nó thế. Quách Tử lập tức gọi Tạ Di Hầu đến, ra lệnh gói ghém tiền bạc, tư trang… để hai thầy trò bỏ trốn ngay tức khắc. Di Hầu hết sức kinh sợ bèn hỏi lại, Quách Tử bảo:
“Tại người không biết đó thôi. Món “thi khí” của ta chỉ ngăn được “chúng đồng phận”, tức là món nợ của những người đang sống. Còn những oan gia trái chủ, tức là món nợ của những kẻ đã chết, gọi là “chúng dị phần” đã kết thành quỷ Dạ Xoa, lúc nào cũng bám theo ngài, nay nó đã chui vào trong bụng ngài, biến thành khối u thì ta không chữa nổi đâu. Bấy giờ thế nào ngài cũng tìm đến đây thì ta biết ăn nói như thế nào?”
Di Hầu nghe ra nhưng vẫn còn thắc mắc:
“Thế sao bọn Dạ Xoa không đột nhập vào người ngài như bọn “chúng đồng phận” kia?”
Quách Tử bảo:
“Bọn “chúng đồng phận” tuy lúc nào cũng xâm nhập được, song nó chỉ gây ra tai vạ ở ngoài da. Còn bọn quỷ Dạ Xoa thì chúng phải chui vào tận ruột gan phèo phổi… mà đòi mạng từ trong ra. Ta đã biết mùi của chúng hăng như cứt gà, vị của chúng cay như đít cà cuống, lại biết chúng phải có đủ “duyên” thì mới đột nhập được, nên đã dặn ngài phải tránh món cay. Ai dè hôm nay ngài nuốt phải món ấy, nó đã nhân đó mà nương theo để chui vào trong bụng rồi…”
Thầy trò Quách Tử trốn biệt. Quả nhiên mấy hôm sau, trong bụng Hai Nhột nổi lên một cục u. Người nhà Hai Nhột tức tốc tìm đến Chợ Lớn thì chỉ còn bóng chim tăm cá. Mấy tháng sau từ bệnh viện phát đi cáo phó: “Mặc dù được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, tuy tuổi chưa cao bằng ai đó mới chết, song bệnh quá hiểm nghèo…” nên ngài đã ra đi…
Đợi tang lễ xong xuôi mấy tháng, thầy trò Quách Tử mới dám mò về. Người nhà Hai Nhột nghe tin mừng rỡ, lập tức sai người đến mời. Thấy Quách Tử nhận lời sửa soạn đi, Tạ Di Hầu can:
“Sư phụ há không sợ nhà ấy giận mình, vì vụ bỏ trốn vừa rồi hay sao?”
Quách tiên sinh ung dung trả lời:
“Ta chỉ sợ căn bệnh không thể chữa được, cho nên mới phải bỏ trốn. Chứ căn bệnh đã có “bảo bối”, người ta tất sẽ cầu đến mình, thì ta đâu phải sợ làm gì.”
Quả nhiên người nhà Hai Nhột không hề đả động gì đến chuyện mất tích của thầy trò Quách Tử, mà lại đem một việc nghiêm trọng khác ra cầu cứu. Ấy là suốt mấy tháng nay, ngày nào gia đình cũng làm một mâm cơm cúng thịnh soạn, sơn hào hải vị mùi thơm ngào ngạt dâng lên bàn thờ, vậy mà đêm nào Hai Nhột cũng hiện về báo mộng, không vào anh trưởng thì anh thứ, cứ một mực kêu la, đói khát không thể chịu nổi. Không hiểu nguyên cớ ra sao và bây giờ phải làm thế nào?
Quách Tử nghe kể xong, ra vẻ người đã biết từ trước, thong thả phán ngay:
“Cụ nhà bị đói khát là phải thôi. Người sống ăn bằng cách cắn xé, nhai, nuốt… gọi là “đoạn thực”, người chết ăn bằng cách ngửi hương, gọi là “hương thực”. Nghiệp nhẹ ngửi được hương thơm, nghiệp nặng chỉ ngửi được mùi thối. Chuyện đã như vậy, thì tức là nghiệp của ông cụ nhà ta nặng lắm, không hưởng được mùi thức ăn còn nóng sốt đâu. Nên để thiu rồi hãy cúng thì cụ nhà ta mới hưởng được”.
Người nhà Hai Nhột nghe lời, nhất nhất làm theo, cứ để thức ăn thiu hẳn rồi mới đem cúng. Quả nhiên từ đó hết chuyện báo mộng. Lại đem một mâm vàng ra tạ Quách Tử, mời làm thầy bọc mệnh cho gia tộc của mình. Quách Tử nhận lời đem vàng về nhà, chia phần cho Di Hầu. Thầy trò bàn nhau tìm cách mở một xưởng lớn, chế ra thật nhiều “thi khí”, phòng khi có người phải dùng đến, tha hồ thu lợi.
Cũng chả cần phải đợi lâu. Câu chuyện về “thi khí” chữa căn bệnh chảy nước vàng, đổi màu da… của Hai Nhột chẳng hiểu sao đã loang ra khắp nước. Từ đó có khối người tìm đến đặt hàng, xưởng “thi khí” của thầy trò Quách Tử phát đạt lên trông thấy.
Phạm Lưu Vũ
(FB Phạm Lưu Vũ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét