Posted on 22/03/2017
Nguồn: Kaushik Basu, “Trump’s Gift to China,” Project Syndicate, 09/03/2017.
Biên dịch: Chu Tuấn Việt | Biên tập: Nguyễn Huy Hoàng
Những lời đe dọa mang màu sắc chủ nghĩa bảo hộ của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đối với Trung Quốc đã làm dấy lên nhiều lo ngại. Nếu ông thực hiện lời hứa của mình và chính thức coi Trung Quốc là nước thao túng tiền tệ hoặc áp mức thuế nhập khẩu cao hơn chẳng hạn thì những hệ quả ngắn hạn – bao gồm một cuộc chiến thương mại – có thể sẽ rất nghiêm trọng. Nhưng về dài hạn, việc Hoa Kỳ xoay theo chủ nghĩa bảo hộ cũng có thể là một điều trong cái rủi có cái may cho Trung Quốc.
Rõ ràng Trung Quốc đang phải trải qua một giai đoạn phát triển khó khăn. Sau ba thập niên đạt mức tăng trưởng GDP hai con số – một thành tựu rất hiếm có trong lịch sử – tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại đáng kể. Giá nhân công tăng kèm theo nhu cầu yếu đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc đã khiến mức tăng GDP hàng năm của nước này giảm xuống còn 6,9% năm 2015 và 6,7% trong năm ngoái. Chính phủ Trung Quốc hiện giờ đã giảm mục tiêu tăng trưởng cho giai đoạn 2016–2020 xuống mức 6,5 đến 7%.
Đây vẫn là mức tăng đáng nể; nhưng chưa bằng những gì tốt nhất mà Trung Quốc có thể đạt được. Như Justin Yifu Lin và Wing Thye Woo đã nhận xét, năm 1951, khi GDP bình quân đầu người của Nhật Bản so với Hoa Kỳ tương đương với tỷ lệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hiện nay, Nhật Bản đã liên tục duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 9,2%.
Gánh nặng nợ quá lớn là một trở ngại ngăn Trung Quốc có thể tăng trưởng mạnh mẽ như vậy. Theo một phân tích độ ổn định nền kinh tế của Viện Toàn cầu McKinsey, nếu Trung Quốc tiếp tục theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa trên vay nợ và đầu tư của mình, tỷ lệ các khoản nợ xấu (NPL) sẽ tăng từ mức 1,7% hiện nay (theo số liệu chính thức) lên mức 15% chỉ trong hai năm. Tuy vậy, rủi ro của các khoản nợ xấu không phải tin mới đối với Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, và các bằng chứng cho thấy rằng họ sẽ thực hiện các bước giảm nhẹ rủi ro.
Thật không may là nợ không phải là vấn đề duy nhất của Trung Quốc. Vị thế thống trị trên thị trường xuất khẩu toàn cầu – động lực tăng trưởng chính của Trung Quốc trong những thập niên gần đây – đang bị xói mòn. Năm ngoái, tỷ lệ kim ngạch thương mại so với GDP của Ấn Độ đã vượt Trung Quốc. Và dù vẫn tăng đều, năng suất lao động của Trung Quốc vẫn thấp hơn 30% so với mức trung bình của các nước phát triển.
Trước những thách thức đó, sẽ thật lạ kỳ nếu khẳng định rằng Trung Quốc sắp vươn đến một tầm ảnh hưởng mới lớn hơn trên toàn cầu. Nhưng nhờ có cách tiếp cận chính sách của Trump, Trung Quốc đang có một cơ hội mới và quan trọng để thành công.
Dù các dòng chảy thương mại và vốn vẫn cần được điều tiết, việc mở cửa các thị trường nhìn chung sẽ đem lại lợi nhiều hơn hại. Các chính sách “tân bảo hộ” của Trump – nhằm hạn chế các dòng chảy hàng hóa, dịch vụ, và nhân lực vào Hoa Kỳ – bắt nguồn không từ đâu khác mà từ chính chủ nghĩa bài ngoại thiển cận. Rốt cuộc, nó sẽ khiến chính Hoa Kỳ bị cô lập nhiều hơn so với mức độ mà nước này muốn cách ly Trung Quốc hoặc Mexico.
Lịch sử đã chỉ rõ điều này. Ngay trước Thế chiến I, Argentina là một trong những nước giàu nhất thế giới, dưới Hoa Kỳ nhưng trên Đức. Kể từ đó, nền kinh tế Argentina đã sụt giảm vì hai nguyên nhân: thiếu đầu tư vào giáo dục (một sai lầm mà có thể Trump cũng sẽ mắc phải) và tăng cường chủ nghĩa bảo hộ.
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc trong những năm 1920 đã lên đến đỉnh điểm vào năm 1930, khi các lực lượng dân tộc chủ nghĩa cực hữu lật đổ chính phủ Argentina. Chính phủ mới – với quan điểm quyết liệt chống chủ nghĩa tự do, chưa kể đến việc chống người nước ngoài – đã tăng mạnh thuế quan trong nhiều lĩnh vực. Tính trung bình, mức thuế nhập khẩu tăng từ 16,7% năm 1930 lên 28,7% năm 1933. Tuy họ giữ được công ăn việc làm trong các khu vực truyền thống, năng suất lao động lại sụt giảm. Ngày nay, Argentina thậm chí còn chưa lọt được vào danh sách 50 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Vì vậy, do vai trò toàn cầu nổi trội của nước Mỹ, cách tiếp cận chính sách của Trump dự kiến sẽ gây hại lớn cho nền kinh tế Hoa Kỳ và tạo ra nhiều tác động sâu rộng. Nhưng việc tự cô lập về kinh tế, cộng với cách tiếp cận hướng nội “nước Mỹ trên hết” trong chính sách đối ngoại, cũng sẽ tạo ra khoảng trống cho các nước khác – trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ và Mexico – tăng cường ảnh hưởng quốc tế của họ.
Hãy xem xét việc Trump rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một thỏa thuận thương mại lớn liên khu vực với sự tham gia của 12 nước châu Á-Thái Bình Dương, nhưng không có Trung Quốc. Tất nhiên TPP cũng có những hạn chế, nhất là nó trao cho các tập đoàn lớn những lợi ích bất hợp lý và không công bằng. Nhưng đổi lại nó cũng có rất nhiều ưu điểm, và đã được hoan nghênh tại các nước như Malaysia và Việt Nam vì nó sẽ tạo cho họ cơ hội tiếp cận thị trường Hoa Kỳ.
Bây giờ khi mà các nước này bị đẩy vào thế bước hụt, Trung Quốc có thể chìa một bàn tay ra giúp. Trung Quốc đã tăng mạnh đầu tư của họ vào khu vực này, bao gồm việc sử dụng sáng kiến “một vành đai, một con đường.” Thiếu một TPP với vai trò thúc đẩy dòng chảy vốn giữa các nước thành viên, Trung Quốc rất có thể sẽ soán ngôi Hoa Kỳ trở thành nguồn cung cấp đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất cho các nước ASEAN. Trung Quốc cũng đang tìm cách làm sâu sắc hơn quan hệ kinh tế với các nước ký TPP như Úc và New Zealand.
Tương tự, Trung Quốc đã nắm bắt cơ hội tạo ra bởi kế hoạch không được xem xét thấu đáo của Trump là xây dựng một bức tường dọc biên giới với Mexico để vươn đến các láng giềng phương Nam của Hoa Kỳ. Chỉ hơn một tháng sau khi Trump đắc cử, Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì đã gặp Ngoại trưởng Mexico Claudia Ruiz Massieu, cam kết làm sâu sắc hơn quan hệ ngoại giao, đồng thời tăng cường các chuyến bay và thương mại giữa hai nước. Trung Quốc hiện đã là đối tác thương mại lớn nhất của Brazil. Nước này có thể cũng đang nhắm đến vị thế tương tự ở Mexico và có thể là cả châu Mỹ Latinh.
Trong khi Trump ngày càng phát ngôn theo hướng bảo thủ và bài ngoại, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lại giảm giọng điệu dân tộc chủ nghĩa của mình và càng trở nên giống một nhà lãnh đạo toàn cầu hơn. Dường như ông đã nhận ra Trung Quốc đang đứng trước cơ hội để không chỉ đạt được một chu kỳ tăng trưởng kinh tế mới, mà còn có thể bảo đảm một vai trò nổi trội hơn nhiều trong quá trình hoạch định chính sách toàn cầu.
Kaushik Basu, cựu kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới, là giáo sư kinh tế tại Đại học Cornell.
Copyright: Project Syndicate 2017 – Trump’s Gift to China
Báo Nhật : Tillerson đã ăn phải bả của Bắc Kinh ?
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tiếp Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson ngày 19/03/2017 tại Bắc Kinh.REUTERS/Thomas Peter
Chuyến công du châu Á đầu tiên của Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson tuần qua tiếp tục được báo chí trong khu vực bàn luận, đặc biệt là về chuyến đi Trung Quốc của ông trong hai ngày 18 và 19/03.
Riêng tờ The Japan Times của Nhật thì lo lắng đặt câu hỏi trong hàng tựa : « Lãnh đạo ngoại giao Mỹ đã vô tình tạo cho Trung Quốc một " mối quan hệ đại cường mới " ? ». Lý do là vì, theo nhận xét của tờ báo, trong chuyến đi đầu tiên của ông tới nước này, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Rex Tillerson đã sử dụng các cụm từ và ngôn ngữ thường được Đảng Cộng sản Trung Quốc sử dụng.
Tại Bắc Kinh, ông Tillerson đã đề cập đến mối quan hệ Mỹ-Trung Quốc như là được "xây dựng trên nguyên tắc không đối đầu, không xung đột, tôn trọng lẫn nhau và luôn tìm kiếm các giải pháp có lợi cho cả hai bên". Đó là những ngôn từ thường được Bắc Kinh sử dụng và điều đó đã làm một số chuyên gia ngạc nhiên. Cụm từ "tôn trọng lẫn nhau" có thể được hiểu là tôn trọng những gì mà Trung Quốc xem là "lợi ích cốt lõi" của họ.
Những lợi ích cốt lõi này bao gồm các vấn đề về lãnh thổ và chủ quyền, chẳng hạn như tranh chấp Trung - Nhật trên quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông, cũng như tranh chấp trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông. Đài Loan, mà Trung Quốc coi một tỉnh phản nghịch, nếu cần sẽ dùng vũ lực để thống nhất với Hoa lục, cũng là một lợi ích cốt lõi.
Trong các tuyên bố được công bố sau cuộc gặp với ông Tillerson, chủ tịch Tập Cận Bình đã nhấn mạnh hợp tác là "sự lựa chọn đúng đắn duy nhất" đối với quan hệ Trung-Mỹ, vì theo ông, các lợi ích chung của Trung Quốc và Mỹ vượt xa sự khác biệt giữa hai nước.
Các phương tiện truyền thông Nhà nước của Trung Quốc cũng đã đăng nhiều bài ca ngợi những tuyên bố ông của Tillerson, nói rằng Ngoại trưởng Mỹ đã "ngầm thừa nhận" mô hình quan hệ đại cường mới » của Bắc Kinh.
Ngay cả Hoàn Cầu Thời Báo, nổi tiếng với giọng điệu dân tộc chủ nghĩa cực đoan, cũng nhấn mạnh rằng Tillerson đã hai lần đề cập đến "nguyên tắc không đối đầu, không xung đột, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác cùng có lợi", trong khi chính quyền Obama trước đây không hề nói đến điều này.
Theo The Japan Times, các đồng minh của Mỹ trong khu vực, cụ thể là Tokyo và Seoul, đã rất lo lắng theo dõi cách thức mà chính quyền Trump đối phó với một nước Trung Quốc ngày càng mạnh.
Khi được hỏi là phải chăng Tillerson muốn bắn một tín hiệu cho Bắc Kinh bằng cách diễn đạt với những ngôn từ gần như giống hệt nhau, phát ngôn viên Mark Toner của Bộ Ngoại giao nói rằng Ngoại trưởng Mỹ chỉ cố chuyển tải một điều là Hoa Kỳ cũng muốn có một quan hệ « thắng-thắng » với Trung Quốc.
Trên thực tế, theo The Japan Times, gần như chắc chắn ông Tillerson đã tỏ thái độ cứng rắn hơn khi hội đàm kín với giới lãnh đạo Bắc Kinh, nên việc sử dụng những ngôn từ nói trên có lẻ là nhắm để cho Trung Quốc vớt vát thể diện.
Trong một tuyên bố, Tillerson đã thể hiện quan điểm cứng rắn của ông với Trung Quốc khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tôn trọng "trật tự dựa trên luật lệ để giải quyết các tranh chấp lãnh hải và tự do hàng hải và hàng không". Đây là một cách để duy trì nguyên trạng ở Biển Hoa Đông và Biển Đông, và cũng nhằm để trấn an thủ tướng Nhật Shinzo Abe, người cũng có đường lối cứng rắn trước những hành động xâm lấn của Trung Quốc trên hai vùng biển đó.
Theo một chuyên gia được tờ The Japan Times trích dẫn, tuy Trung Quốc sẽ rất vui mừng với cử chỉ hợp tác của Tillerson, Bắc Kinh không ngây thơ đến mức nghĩ rằng những khác biệt sâu sắc giữa hai bên sẽ biến mất như có "phép mầu".
Mỹ-Trung : Bất đồng nhưng buộc phải hợp tác
Chủ tịch Tập Cận Bình và tổng thống Donald Trump.REUTERS/Toby Melville/Lucas Jackson/File Photos
Tờ nhật báo kinh tế của Anh Financial Times hôm nay có bài nhận định về quan hệ Mỹ-Trung đứng về góc độ thương mại. Khỏi nói thì ai cũng hiểu rằng tương lai của thế giới tùy thuộc phần lớn vào quan hệ giữa hai siêu cường quốc này. Thế mà hai nước nay lại có quan điểm đối chọi nhau về nền kinh tế thế giới.
Tờ báo nhắc lại rằng, cách đây 40 năm, Mao Trạch Đông lãnh đạo Trung Quốc với mục tiêu đạt đến tự cấp tự túc. Tuy nhiên, đến năm 1978, người kế nhiệm ông là Đặng Tiểu Bình đã đề ra chính sách cải tổ và mở cửa. Trong khi đó, Hoa Kỳ, quốc gia cha đẻ của tự do kinh tế toàn cầu thời hậu thế chiến thứ hai, nay lại bầu một lãnh đạo có quan điểm cho rằng chính sách kinh tế đó đi ngược lại với quyền lợi của nước Mỹ.
Điều trớ trêu hiện nay đó là thái độ trái ngược hẳn nhau của lãnh đạo hai nước Mỹ -Trung về nền kinh tế thế giới hiện nay, mà rõ rệt nhất là sự tương phản giữa bài diễn văn ủng hộ mạnh mẽ toàn cầu hóa mà chủ tịch Tập Cận Bình đọc tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos tháng Giêng vừa qua, với tuyên bố của tổng thống Donald Trump vài ngày sau đó rằng « bảo hộ mậu dịch sẽ giúp cho đất nước chúng ta thịnh vượng và hùng mạnh ».
Thông cáo của cuộc họp các bộ trưởng Tài chính nhóm G20 tại Đức tuần trước cũng đã bỏ đi cam kết « chống lại mọi hình thức bảo hộ mậu dịch ». Hiện nay chưa biết là bảo hộ mậu dịch theo kiểu Trump sẽ như thế nào, nhưng chắc chắn là sẽ rất đáng ngại. Theo Financial Times, nền kinh tế thế giới còn đang gượng dậy khó mà chống đỡ được một cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc.
Thế nhưng tờ báo này cho rằng, cho dù ông Trump vẫn tuyên bố « Nước Mỹ trên hết » và cho dù lãnh đạo Trung Quốc chỉ lo cho công dân nước họ, không bên nào có thể đưa ra những đòi hỏi mà không để ý đến quan điểm và lợi ích của bên kia. Điều đáng nói là giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay có vẻ như hiểu điều đó hơn là lãnh đạo Mỹ.
Theo Financial Times, khi chủ tịch Tập Cận Bình và tổng thống Donald Trump gặp nhau lần đầu tiên vào tháng tới ở Mar-a-Lago, hai bên cần phải tìm ra một nền tảng cho hợp tác. Nhưng hiện giờ chỉ toàn thấy những "điềm xấu". Ông Trump đã kịch liệt chỉ trích chính sách mậu dịch và hối đoái của Trung Quốc, thậm chí đã toan thách thức chính sách « một nước Trung Quốc duy nhất ». Thêm vào đó là sự cách biệt rất lớn về cá tính và kinh nghiệm giữa hai nhân vật này.
Nếu chỉ xét thuần túy về mặt kinh tế, theo Financial Times, trước hết, hai lãnh đạo cần phải thuyết phục nhau rằng sẽ không có bên nào đạt được mục tiêu của mình nếu xung đột với nhau, cho dù là chiến tranh thương mại, vì cả hai bên sẽ đều bị thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp.
Thứ hai, ông Tập Cận Bình phải nhấn mạnh với ông Donald Trump rằng quan điểm của ông về các chính sách tiền tệ và thương mại của Trung Quốc không còn đúng với thực tế nữa. Từ tháng 06/2014 đến nay, Bắc Kinh đã bỏ ra rất nhiều tiền để nâng giá đồng nhân dân tệ và từ 2006 đến 2016, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đã giảm từ 35% xuống còn 19% GDP, tức là nước này không còn là cỗ máy xuất khẩu hàng hoá tràn ngập thế giới.
Thứ ba, ông Trump cần nói với lãnh đạo họ Tập rằng Trung Quốc không thể cứ lập luận rằng họ là một quốc gia đang phát triển và họ cần phải nhận thức rằng, trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau như thế, các nước khác buộc phải quan tâm đến những gì Trung Quốc làm, chẳng hạn như trong vấn đề thặng dư thương mại.
Nhưng Finnancial Times đặt câu hỏi: “ Nếu ông Trump mặc kệ những hậu quả toàn cầu của những gì ông làm, tại sao Trung Quốc lại không được có thái độ như thế ? ».
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét