KARL MARX
Giáo chủ Cộng Sản: Karl Marx là người thờ quỷ Sa Tăng
Giáo chủ Cộng Sản: Karl Marx là người thờ quỷ Sa Tăng
Người Trung Quốc và Việt Nam từ nhỏ đến lớn bị cưỡng chế truyền
bá lý luận chủ nghĩa Marx, tuy nhiên bản thân chúng ta lại không hề chân chính
hiểu rõ Marx. Trong viện nghiên cứu Marx ở Moscow có hơn 100 đầu sách do Marx
viết, tuy nhiên chỉ có 13 quyển được xuất bản. Marx viết nhiều như vậy, rốt
cuộc là về điều gì? Vì sao không cho xuất bản? Muốn giấu giếm điều gì đây?
Gần đây, xem thấy trên mạng lưu truyền một số bài viết về Marx
và Sa-tăng giáo, tôi đã tìm được mấy cuốn sách tiếng Anh nói về sinh hoạt và
công tác của Marx [1,2], nhờ đó mới biết bình sinh không để nhiều người biết
của Marx.
Ngày 5 tháng 5 năm 1818, Marx sinh ra trong một gia đình luật sư
người Do Thái giàu có. Khi Marx lên 6 tuổi, gia đình ông ta quy y Cơ Đốc giáo.
Thời trẻ Marx là một giáo đồ Cơ Đốc và tín ngưỡng Thượng Đế. Sau khi tốt nghiệp
trung học, thành tích của Marx rất tốt và tất cả đều xem ra bình thường. Cha
Marx cũng đặt kỳ vọng rất lớn vào ông ta.
Tuy nhiên trong thời gian học đại học, tính cách Marx biến đổi
lớn, trong tâm đầy rẫy thù hận và cuồng vọng tự đại, khiến cha mẹ ông ta trở
nên bất an và đau khổ.
Với sự giàu có của gia đình, trong thời gian Marx học đại học,
cha Marx đã cấp cho ông ta rất nhiều tiền để tiêu xài [3]. Tuy nhiên Marx và
Jenny (Jenny von Westphalen) đã bí mật đính hôn (gia cảnh Jenny tốt hơn Marx,
người vừa cao vừa xinh xắn, là đối tượng theo đuổi của nhiều chàng trai). Chiếu
theo lý thường, cuộc đời Marx lúc này lẽ ra nên theo chiều hướng tích cực. Vậy
vì sao Marx bỗng chốc trở nên đầy thù hận? Nguyên là sau khi vào đại học, Marx
đã gia nhập giáo hội Sa-tăng (Satanist Church) do Joanna Southcott chủ trì [2]
(người tự xưng là có giao tế với ma quỷ Shiloh), và trở thành một thành viên
của giáo phái ma quỷ.
Theo tôn giáo Tây phương giảng, Sa-tăng là thiên sứ sa ngã
(fallen angel, hay Lucifer), từ đó trở thành ma quỷ, chứa đầy thù hận và tật đố
với Thượng Đế (God). Giáo hội Sa-tăng tuyên truyền thù hận đối với Thượng Đế,
đồng thời cũng đầy thù hận đối với nhân loại (bởi vì Thượng Đế đã sáng tạo ra
loài người).
Giai đoạn đầu học đại học, Marx dự định học tập thơ ca và hí
kịch. Từ một số bài thơ và kịch bản mà ông ta viết, người ta có thể thấy sự thù
hận của Marx đối với Thần và nhân loại. Ví như trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ
tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair) biểu đạt sự tuyệt vọng của bản thân,
Marx viết: “Ta không còn lại gì ngoài thù hận!” (Nothing but revenge is left to
me!), “Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời cao, Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao
khi ở trên đỉnh, Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp, Sự thống khổ
đen tối nhất cho kẻ ngồi trên…” (I shall build my throne high overhead, Cold,
tremendous shall its summit be. For its bulwark– superstitious dread, For its
Marshall–blackest agony.) Trong bài thơ này, tác giả đã bày tỏ tâm tư: Mơ ước
trở thành Đại vương Khủng bố để hủy diệt cả thế giới. Marx còn thích lặp lại
câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy
diệt”. Trong bài thơ “Sự kiêu ngạo của con người” (Human Pride), Marx viết:
“Rồi ta sẽ quăng đôi găng tay sắt lên, Khinh bỉ trước khuôn mặt mở rộng của thế
giới, Dưới người lùn khổng lồ khóc thút thít, Lao xuống, nhưng không thể diệt
niềm hạnh phúc của ta. Giống như Thượng Đế mà ta dám làm, Xuyên qua vương quốc
hoang tàn trong khải hoàn, Mỗi lời nói là chiến công và ngọn lửa, Và ngực ta sẽ
giống của Đấng Tạo Hóa.” (Then the gauntlet do I fling, Scornful in the World’s
wide open face. Down the giant She-Dwarf, whimpering, Plunges, cannot crush my
happiness. Like unto a God I dare, Through that ruined realm in triumph roam.
Every word is Deed and Fire, And my bosom like the Maker’s own.) Tác giả bài
thơ này đã có được khoái cảm từ việc hủy diệt thế giới, mức độ thù hận và cuồng
vọng có thể thấy được từ đó.
Mikhail Bakunin (một người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ, cùng
Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”, cũng là một giáo đồ Sa-tăng), người từng có
thời là bạn thân của Marx, viết: “Người ta nhất định phải sùng bái Marx. Người
ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có được sự khoan dung của ông ta. Marx là
người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê tởm và điên cuồng”.
Có một điểm cần phải chỉ rõ ở đây, đó là thành viên giáo hội
Sa-tăng không phải là người theo chủ nghĩa duy vật; họ không chỉ không vô thần,
mà còn tin rằng có sự sống sau khi chết. Tín đồ Sa-tăng giáo tin vào sự tồn tại
của Thần, chỉ là họ thù hận Thần, muốn vượt qua Thần, leo lên trên cả Thần (ít
nhất là ngồi ngang hàng với Thần). Ví dụ trong kịch bản “Oulanem” nói về quan
hệ giữa mình và Sa-tăng giáo (“Oulanem” là một danh xưng nghi thức tôn giáo của
Sa-tăng, “Oulanem is a ritualistic name for Satan [2]“), Marx không phủ nhận sự
sống sau khi chết, mà cho rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận với Đấng
Tối Cao. Trong vở kịch này, tác giả đã bán linh hồn mình cho ma quỷ [1].
Sau khi Marx chết không lâu, người hầu gái cũ của Marx là Helen
Demuth nói: “Ông ta (Marx) là một người rất kính sợ thần. Khi mắc trọng bệnh,
ông ta một mình trong căn phòng, đầu cuốn dây băng và cầu khấn trước ngọn nến
đang cháy”. Theo phân tích, nghi thức cầu khấn của Marx không phải là của Do
Thái giáo (cũng không phải của Cơ Đốc giáo), mà rất có thể là một loại nghi
thức ma quỷ bí mật nào đó của Sa-tăng giáo. Thực sự Marx không phải là một
người vô thần.
Tháng 3 năm 1854, người con trai Edgar của Marx đã xưng hô như
sau trong câu mở đầu bức thư gửi cha mình: “Ác quỷ thân ái của con (My dear
devil)”. Bởi vì giáo đồ Sa-tăng giáo chính là gọi người mình thương yêu như
vậy, liệu có thể là trùng hợp chăng? Không chỉ có vậy, người con rể yêu quý
Edward Eveling của Marx cũng là một tín đồ Sa-tăng. Người bạn thâm giao Proudhon
(nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa người Pháp) của Marx cũng sùng bái Sa-tăng như
vậy. Nhà thơ Đức nổi tiếng Heinrich Heine, một người bạn thân khác của Marx,
cũng là một người sùng bái Sa-tăng, hơn nữa trong thơ còn công khai ca ngợi
Sa-tăng, nói Sa-tăng “là một người đàn ông, khả ái mê ly”.
Mặc dù Marx công khai bày tỏ sự thù hận đối với chủ nghĩa tư bản
trong các tác phẩm của mình, nhưng ông ta lại đầu cơ cổ phiếu vào thị trường
Luân Đôn và thua một lượng lớn tiền. Lúc may mắn thắng được, tháng 6 năm 1864,
Marx viết trong bức thư gửi người chú Leon Phillips rằng ông ta thắng được 400
bảng Anh trên thị trường cổ phiếu [2].
Marx được trợ giúp một lượng lớn tiền từ Engels, nhưng rõ ràng
là vẫn không thỏa mãn. Khi một người bác vợ 90 tuổi sắp chết, Marx viết như sau
trong bức thư gửi Engels: “Nếu như con chó già (old dog) đó chết, thì tôi không
ngại gì nữa”. Engels phúc đáp như sau: “Chúc mừng ông, chướng ngại đối với di sản kế
thừa của ông mắc bệnh rồi, tôi hy vọng ông ta vạ đến nơi rồi”. Sau khi cụ già
90 tuổi mà Marx gọi là “con chó già” qua đời, Marx lại viết: “Đây là một việc
mừng. … Nếu không phải con chó già đó đem một đống của giao cho bà chủ giữ nhà,
thì vợ tôi còn có thể được nhiều hơn”.
Marx và Engels đều là phần tử trí thức cao cấp, thế nhưng người
ta phát hiện rằng, thư từ qua lại giữa họ đầy rẫy những từ ngữ hạ lưu thấp hèn.
Ngoại trừ một lượng lớn ngôn từ dâm ô ra, giữa họ không hề có bất cứ bức thư
nào trao đổi về niềm mơ ước chủ nghĩa xã hội nhân đạo.
Giờ lại xem thái độ của Marx đối với mẹ và vợ mình. Tháng 12 năm
1863, Marx viết trong bức thư gửi Engels: “Hai giờ trước, tôi đã nhận được một
bức điện báo, nói mẹ tôi đã chết rồi. … dưới rất nhiều tình huống, điều mà tôi
cần không phải là một người đàn bà già đó, mà là những cái khác. Tôi nhất định
phải lên đường đến Trier để tiếp thu di sản” (ghi chú của người viết: Trier là
nơi Marx sinh ra). Điều mà Marx quan tâm chỉ là di sản mà thôi. Ngoài ra, quan
hệ giữa Marx và người vợ Jenny là không tốt, bà đã hai lần ly thân ông ta,
nhưng sau đó lại trở về. Khi Jenny chết, Marx thậm chí còn không tham dự lễ
tang.
Marx không bao giờ thực hiện nghĩa vụ nuôi gia đình; bất chấp
mình có đủ tiền, Marx vẫn dựa vào Engels để sinh hoạt. Marx và vợ sinh được sáu
người con, trong đó ba người chết vì thiếu dinh dưỡng, còn hai người con gái và
một con rể thì tự sát (người con gái Eleanor từng nói khi Engels sắp chết rằng
cô suy sụp khi biết Marx có con riêng và sau đó tự sát) [2]. Marx còn nát rượu
nghiêm trọng [1].
Marx đối với người thân của chính mình còn tuyệt tình như vậy,
đối với người khác thì có thể tưởng tượng được. Ai cũng biết Marx là người Do
Thái, nhưng ông ta lại căm thù người Do Thái, còn viết riêng một cuốn sách bài
Do Thái, gọi là “Về vấn đề Do Thái” (On the Jewish Question). Ông ta thù hận
người Đức, người Trung Quốc, miệt thị: “Người Đức, người Trung Quốc, người Do
Thái đều là kẻ bán hàng rong”. Ông ta gọi người Nga là “bị cơm”, gọi người
Xla-vơ là “nhân chủng cặn bã”, là chủng tộc “phản động”, và nên bị hủy diệt
trong cơn bão táp cách mạng thế giới.
Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” và các cuốn sách khác, Marx
tuyên bố phấn đấu vì giai cấp vô sản, thế nhưng lại gọi giai cấp vô sản là “ngu
xuẩn, lưu manh, khó ngửi”, còn gọi người da đen là “đần độn”, thậm chí ủng hộ
chế độ nô lệ ở Bắc Mỹ…
Ngày 9 tháng 1 năm 1960, tờ báo Đức “Reichsruf” đã tiết lộ một
vụ bê bối lớn: Thủ tướng Áo Raabe đã từng bí mật gửi lãnh đạo Khrushchev của
Liên Xô một phong thư gốc của Marx tìm thấy trong kho lưu trữ mật. Trong thư đã
chứng thực Marx từng là một kẻ mật báo lĩnh thưởng của cảnh sát Áo, ông ta từng
là gián điệp trong đội ngũ cách mạng lưu vong tại Luân Đôn. Mỗi lần cung cấp
một tin tức, Marx nhận được 25 đồng tiền thưởng. Phạm vi mật báo của Marx liên
quan đến những người cách mạng lưu vong tại Luân Đôn, Paris và Thụy Sỹ [1].
Marx chết ngày 14 tháng 3 năm 1883, và được mai táng tại nghĩa
trang Highgate (Highgate Cemetary) ở Luân Đôn, với chỉ 6 người tham dự tang lễ.
Thế nhưng nghĩa trang Highgate này là trung tâm sùng bái Sa-tăng ở Luân Đôn,
rất nhiều nghi thức đen tối sùng bái ma quỷ đã được cử hành tại nghĩa trang
này.
Sự thực đã chứng tỏ rõ Marx là một tín đồ Sa-tăng giáo. Tất
nhiên Marx không dám thừa nhận, và để che đậy, ông ta mới nói dối mình là người
vô thần. Marx vận dụng thuần thục các mánh khóe của Sa-tăng — bịa đặt và lừa
dối. Ở một góc độ khác, Marx là giáo chủ của đảng cộng sản, dùng vô thần luận,
duy vật luận để che đậy diện mạo thật sự của ma giáo cộng sản, để mong đạt được
mục đích hủy diệt tâm linh của nhân loại.
Mở đầu “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Marx viết: “Một bóng ma
đang ám ảnh Châu Âu: Bóng ma chủ nghĩa cộng sản”. Không ít người cảm thấy nghi
hoặc về đoạn này. Hiện tại chúng ta đã minh bạch rồi, “bóng ma chủ nghĩa cộng
sản” này kỳ thực là Sa-tăng trong tâm Karl Marx. “Cửu bình cộng sản đảng” đã
nói rõ điều này cho mọi người, gọi là “tà linh cộng sản”.
Marx đối với nhân loại không hề có yêu thương, mà chỉ có thù
hận. Hơn 100 năm qua, chủ nghĩa cộng sản thực tiễn thực hiện giấc mộng của tín
đồ Sa-tăng Marx đã đem đến cho nhân loại tai ương và thống khổ lớn phi thường.
May có “Cửu bình cộng sản đảng” khiến ngày càng nhiều người Trung Quốc thức
tỉnh, thoái xuất đảng, đoàn, đội của Trung Cộng, thoát khỏi khống chế của
Sa-tăng, từ đó được tân sinh.
_________
_________
Tham khảo tư liệu:
[1] Von Richard Wurmbrand, Marx and Satan (Marx và Sa-tăng),
Living Sacrifice Book Co (December 1986).
[2] David Allen Rivera, Final Warning: A History of the New
World Order, Conspiracy (February 2004). Chương 6: Khởi nguyên của chủ nghĩa
cộng sản.
[3] Rolv Heuer trong
cuốn sách “Thiên tài và phú ông” đã giới thiệu khi Marx học đại học Berlin, cha
Marx cấp cho Marx mỗi năm 700 đồng bạc tiền tiêu vặt. Đây là một con số rất
lớn, bởi vì thời bấy giờ, chỉ 5% người có thu nhập hơn 300 đồng bạc/năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét