(Báo Quân đội Nhân dân, 15 – 2 – 1979)
“Đường biên giới giữa
Việt Nam và Trung Quốc đã được hoạch định trong các Công ước ký kết giữa Chính
phủ Pháp và triều đình nhà Thanh (Trung Quốc) trong những năm 1887, 1895 và đã
được chính thức cắm mốc.
Xuất phát từ tình hữu
nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước, trong những năm 1957-1958, Đảng Lao
động Việt Nam đã thỏa thuận với Đảng Cộng sản Trung Quốc giữ nguyên trạng đường
biên giới do lịch sử để lại, coi việc giải quyết mọi vấn đề về biên giới và
lãnh thổ là thuộc thẩm quyền của Chính phủ hai nước, và chủ trương giải quyết
mọi tranh chấp có thể xảy ra bằng thương lượng.
Theo tinh thần của sự
thỏa thuận đó, đại diện chính quyền các cấp ở vùng biên giới hai bên Việt Nam
và Trung Quốc đã tiến hành nhiều cuộc hội đàm về các vấn đề liên quan đến biên
giới trong phạm vi quyền hạn của địa phương. Đại diện Chính phủ hai nước cũng
đã tiến hành nhiều cuộc tiếp xúc và đàm phán về vấn đề biên giới giữa hai nước.
Từ trước đến nay, phía
Việt Nam luôn luôn giữ đúng sự thỏa thuận giữa hai đảng, cố gắng hết sức mình
góp phần làm cho đường biên giới Việt - Trung trở thành một đường biên giới hữu
nghị.
Song, do những ý đồ đen
tối, từ lâu nhà cầm quyền Trung Quốc đã vi phạm sự thỏa thuận năm 1957-1958
giữa hai đảng, từng bước gây ra những sự kiện biên giới ngày càng phức tạp và
nghiêm trọng.
Từ năm 1957 đến năm
1977, bằng nhiều thủ đoạn xấu xa, họ đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở hơn 50
điểm trên toàn tuyến biên giới gồm 6 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng,
Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên và Lai Châu. Đó là chưa kể những vùng đất mà từ trước
1957 họ đã quản lý vượt quá đường biên giới lịch sử.
Những hoạt động của họ
đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, quấy rối, khiêu khích ở vùng biên giới
trên bộ, cho đến năm 1973, đã diễn ra ở một số nơi, và từ năm 1974 trở đi, đã
tăng lên nhiều và mỗi năm lại tăng nhanh, cu thể :
Năm 1974: 179 vụ
Năm 1975: 294 vụ
Năm 1976: 812 vụ
Năm 1977: 873 vụ
Năm 1975: 294 vụ
Năm 1976: 812 vụ
Năm 1977: 873 vụ
Trong tổng số 2158 vụ
nói trên, có 568 vụ xâm canh, 1355 vụ tuần tra vũ trang, 61 vụ đánh và bắt cóc
người Việt Nam trên đất Việt Nam.
Cần lưu ý là từ năm
1955, phía Trung quốc đã lợi dụng việc giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt
từ Hữu nghị quan đến Yên Viên, đã đặt điểm nối ray đường sắt giữa hai nước sâu
vào đất Việt Nam hơn 300 m và coi đó là đường quốc giới giữa Việt Nam và Trung
Quốc.
Cũng trong thời gian từ
năm 1975 đến năm 1977, tàu thuyền Trung Quốc đã xâm phạm vùng biển Việt Nam
trên 1500 lần chiếc, có vụ vào sâu chỉ cách các đảo của Việt Nam từ 2-5 km. Sự
kiện nghiêm trọng là ngày 20 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã dùng quân đội đánh
chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Họ còn đưa ra những đòi hỏi vô lý về
những hòn đảo khác của Việt Nam ở biển Đông.
Từ năm 1978 đến nay, đẩy
mạnh chính sách thù địch đối với Việt Nam, nhà cầm quyền Trung Quốc đã tăng
cường những hoạt động quấy rối, những hành động vũ trang ở biên giới Việt Nam
và ráo riết chuẩn bị chiến tranh chống Việt Nam:
a) HỌ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI
HOA GÂY RỐI Ở VÙNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM;
Đầu năm 1978, phía Trung
Quốc thi hành một kế hoạch có tổ chức, rất thâm độc, đã dụ dỗ và cưỡng ép đi
Trung Quốc hàng chục vạn người Hoa, hòng gây cho Việt Nam những rối loạn về
chính trị, xã hội và kinh tế. Lợi dụng những đặc trưng về địa lý và dân cư vùng
biên giới, bằng nhiều thủ đoạn chiến tranh tâm lý, họ bắt đầu tác động trực
tiếp đến số người Hoa ở vùng biên giới phía bắc Việt Nam, rồi lan dần ra các
tỉnh và thành phố khác của Việt Nam có người Hoa làm ăn sinh sống. Trong tổng
số 17 vạn người Hoa đã chạy đi Trung Quốc, thì riêng tỉnh Quảng Ninh giáp giới
với khu tự trị Quảng Tây của Trung Quốc đã có gần 10 vạn người.
Độc ác hơn nữa, sau khi
dụ dỗ, cưỡng ép được người Hoa từ các tỉnh kéo lên vùng biên giới, nhà cầm
quyền Trung Quốc đã cho đóng các cửa khẩu, để mặc cho người Hoa bị nghẽn lại
phải sống cảnh màn trời chiếu đất, rồi họ cho bọn tay sai từ bên kia biên giới
lẻn sang trà trộn với bọn côn đồ trong người Hoa, quấy phá, hành hung cán bộ,
nhân dân Việt Nam ở địa phương, làm rối loạn an ninh chính trị và trật tự xã
hội Việt Nam ở vùng biên giới.
Nghiêm trọng là sự kiện
ở cửa khẩu Hữu nghị ngày 25 tháng 8 năm 1978: trong khi cán bộ Việt Nam đang
giải thích, vận động người Hoa bị nghẽn lại ở đây trở về nơi ở cũ làm ăn, thì
phía Trung Quốc đã dùng loa chỉ huy bọn côn đồ trong người Hoa và cho hàng trăm
lính và công an mặc quần áo dân thường tràn sang lãnh thổ Việt Nam, dùng thanh
sắt, gậy gộc, dao quắm… đánh chém cán bộ, nhân viên và công an biên phòng Việt
Nam, làm hai người chết tại chỗ và 25 người khác bị thương, trong đó có 7 người
bị thương nặng.
b) NHÀ CẦM QUYỀN TRUNG
QUỐC NGÀY CÀNG TĂNG CƯỜNG NHỮNG HOẠT ĐỘNG VŨ TRANG XÂM PHẠM LÃNH THỔ VIỆT NAM;
– Số vụ xâm phạm vũ
trang của phía Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam ngày càng tăng :
Năm 1978: 583 vụ.
Năm 1979, mới trong tháng 1 và tuần lễ đầu của tháng 2, đã có tới 230 vụ.
Năm 1979, mới trong tháng 1 và tuần lễ đầu của tháng 2, đã có tới 230 vụ.
– Quy mô các vụ xâm phạm
ngày càng mở rộng trên toàn tuyến biên giới của Việt Nam từ Quảng Ninh đến Lai
Châu. Tính chất của nó ngày càng nghiêm trọng: từ những hoạt động quấy nhiễu
việc làm ăn bình thường của nhân dân vùng biên giới, bao vây khiêu khích lực
lượng công an vũ trang và dân quân Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên lãnh thổ của
mình, đến những hoạt động phục kích bắn giết, bắt cóc người của Việt Nam đưa về
Trung Quốc, tập kích vào các trạm gác của dân quân và các đồn biên phòng của
Việt Nam.
– Các lực lượng vũ trang
Trung Quốc ngày càng vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam, có nơi cách đường biên
giới đến 5.000 mét, như vụ tập kích vào trạm gác của dân quân Việt Nam ở Bản
Lầu, tỉnh Hoàng Liên Sơn ngày 14 tháng 1 năm 1979.
– Lực lượng xâm nhập
trong từng vụ ngày càng đông hơn. Có nơi, họ đã dùng cả nghìn người, gồm có
lính chính quy, công an và dân binh, như vụ đánh chiếm đồi Chông Mu, tỉnh Cao
Bằng ngày 1 tháng 11 năm 1978; hoặc có nơi họ dùng hàng tiểu đoàn lính chính
quy tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 2.000 mét, đánh chiếm các trạm gác của
dân quân Việt Nam ở khu vực phía sau mốc 25 xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc, tỉnh
Lạng Sơn ngày 10 tháng 2 năm 1979.
– Họ sử dụng ngày càng nhiều loại vũ khí, từ súng bộ binh đến đại liên và súng cối. Trong vụ tập kích vào trạm gác Xá Hồ của công an nhân dân vũ trang Việt Nam ở xã Ma L Chải, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu ngày 6 tháng 2 năm 1979, lính Trung Quốc đã sử dụng súng cối 82 ly và súng 12 ly 7 trong vụ tập kích vào trạm biên phòng Hồ Pả và các vùng lân cận thuộc khu vực Bản Máy, tỉnh Hà Tuyên ngày 8 tháng 2 năm 1979, họ đã sử dụng súng DKZ 75 và 85.
– Họ sử dụng ngày càng nhiều loại vũ khí, từ súng bộ binh đến đại liên và súng cối. Trong vụ tập kích vào trạm gác Xá Hồ của công an nhân dân vũ trang Việt Nam ở xã Ma L Chải, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu ngày 6 tháng 2 năm 1979, lính Trung Quốc đã sử dụng súng cối 82 ly và súng 12 ly 7 trong vụ tập kích vào trạm biên phòng Hồ Pả và các vùng lân cận thuộc khu vực Bản Máy, tỉnh Hà Tuyên ngày 8 tháng 2 năm 1979, họ đã sử dụng súng DKZ 75 và 85.
– Lực lượng vũ trang
Trung Quốc cũng đã nhiều lần dùng súng lớn từ bên kia biên giới bắn bừa bãi vào
xe cộ, dân cư đi lại trên các đường giao thông ở vùng biên giới bên phía Việt
Nam, vào các trạm gác, làng bản, thị xã, công trường, lâm trường… của Việt Nam.
Như vụ bắn đại liên vào thôn Phai Lầu, xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng
Ninh ngày 14 tháng 1 năm 1979; vụ bắn súng lớn vào thị xã Lao Cai, tỉnh Hoàng Liên
Sơn cũng ngày đó; vụ bắn súng 12 ly 7 vào đồn biên phòng Tà Lùng, nhà máy đường
Phục Hòa và xóm Hưng Long, xã Quy Thuận, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng ngày 2
tháng 2 năm 1979. Thậm chí, có lúc việc bắn phá này kéo dài nhiều ngày liên tục
ở một địa điểm như vụ dùng cối 82 và các loại súng bộ binh khác bắn vào trạm
biên phòng Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng và các thôn xóm xung quanh từ 10-1 đến cuối
tháng 1 năm 1979.
– Họ gây cho nhân dân
Việt Nam thiệt hại về người và của ngày càng nhiều. Riêng tháng 1 và những ngày
đầu tháng 2 năm 1979, lực lượng vũ trang Trung Quốc đã giết hại hơn 40 dân
thường, dân quân và chiến sĩ công an vũ trang Việt Nam, làm bị thương hàng trăm
người khác và bắt đưa về Trung Quốc hơn 20 người. Nhiều nhà cửa của nhân dân bị
thiệt hại. Ở nhiều nơi trên vùng biên giới, việc làm ăn bình thường của nhân
dân Việt Nam bị cản trở nghiêm trọng.
– Cùng với những hoạt
động vũ trang trên vùng biên giới đất liền với quy mô ngày càng lớn, nhịp độ
ngày càng tăng, nhà cầm quyền Trung Quốc còn cho máy bay chiến đấu xâm phạm
vùng trời, cho tàu thuyền xâm phạm vùng biển của Việt Nam. Trong năm 1978, họ
đã cho trên 100 lượt chiếc máy bay xâm phạm vùng trời và 481 lượt tàu thuyền
hoạt động khiêu khích trên vùng biển Việt Nam.
c) NHÀ CẦM QUYỀN TRUNG
QUỐC TẬP TRUNG QUÂN ĐỘI VỚI QUY MÔ LỚN Ở VÙNG SÁT BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT
NAM, RÁO RIẾT CHUẨN BỊ CHIẾN TRANH CHỐNG VIỆT NAM;
Sau khi đơn phương đình
chỉ cuộc đàm phán về vấn đề người Hoa (tháng 9 năm 1978), nhà cầm quyền Trung
Quốc ngày càng đẩy mạnh các hoạt động chuẩn bị chiến tranh ở vùng biên giới hai
nước. Họ đã điều một lực lượng lớn quân đội, gồm hàng chục sư đoàn bộ binh và
nhiều sư đoàn gồm không quân, bộ đội cao xạ, pháo binh, bộ đội đánh ở rừng núi;
đưa nhiều vũ khí, dụng cụ chiến tranh, kể cả máy bay chiến đấu, xe tăng, đại
bác tới vùng biên giới Trung – Việt.
Theo tin AFP từ Bắc Kinh
ngày 21 tháng 1 năm 1979 thì “đã có các cuộc chuyển quân quan trọng tại các khu
vực biên giới mà theo các nguồn tin quân sự phương Tây ở Bắc Kinh, có khoảng 15
đến 17 sư đoàn quân Trung Quốc, tức 150.000 người”.
Tạp chí Kinh tế Viễn
Đông ngày 9 tháng 2 năm 1979 cho biết “dọc biên giới Trung – Việt, Trung Quốc
đã triển khai khoảng 160.000 quân, 700 máy bay chiến đấu, trong đó có cả máy
bay ném bom F9 do Trung Quốc chế tạo”.
Đồng thời, Trung Quốc đã điều tới biên giới Trung – Việt nhiều viên chỉ huy quân sự cao cấp, mà tờ Ngôi sao Oa-sinh-ton nhận xét: “Tướng Dương Đắc Chi được cử làm tư lệnh các lực lượng Trung Quốc dọc biên giới với Việt Nam vốn là một viên tướng có kinh nghiệm nhất của Trung Quốc và được Bắc Kinh tín nhiệm về chính trị”.
Đồng thời, Trung Quốc đã điều tới biên giới Trung – Việt nhiều viên chỉ huy quân sự cao cấp, mà tờ Ngôi sao Oa-sinh-ton nhận xét: “Tướng Dương Đắc Chi được cử làm tư lệnh các lực lượng Trung Quốc dọc biên giới với Việt Nam vốn là một viên tướng có kinh nghiệm nhất của Trung Quốc và được Bắc Kinh tín nhiệm về chính trị”.
Áp sát biên giới Việt
Nam, có nơi lấn vào lãnh thổ Việt Nam, lực lượng vũ trang Trung Quốc đào hầm
hào, xây công sự; đồng thời họ tăng cường diễn tập quân sự với quy mô lớn, bắt
dân Trung Quốc ở vùng biên giới sơ tán vào sâu trong nội địa, họ gây không khí
bất cứ lúc nào cũng có thể bùng nổ chiến sự ở vùng biên giới hai nước.
Cùng với những hành động
chuẩn bị chiến tranh, nhà cầm quyền Trung Quốc đã huy động bộ máy tuyên truyền
đồ sộ của mình từ trung ương đến địa phương, hàng ngày tiến hành xuyên tạc, vu
cáo thô bạo đối với Việt Nam.
Trong những ngày gần đây, một số người lãnh đạo Trung Quốc đã trắng trợn đe dọa chiến tranh chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những lời lẽ hết sức ngang ngược.
Trong những ngày gần đây, một số người lãnh đạo Trung Quốc đã trắng trợn đe dọa chiến tranh chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những lời lẽ hết sức ngang ngược.
Phó thủ tướng Trung Quốc
Đặng Tiểu Bình trong chuyến đi thăm Hoa Kỳ và Nhật Bản vừa qua đã ngang nhiên
xác nhận những tin tức về việc Trung Quốc tập trung quân với quy mô lớn ở sát
biên giới Việt Nam và không ngớt tung ra những lời ngạo mạn nước lớn và rất
hiếu chiến.
Ngày 31 tháng 1 năm
1979, trả lời các phóng viên Mỹ, ông ta nói: “Cần phải cho Việt Nam một bài học
cần thiết”.
Ngày 7 tháng 2 năm 1979,
tại Tô-ky-ô, ông ta tuyên bố “cần phải trừng phạt Việt Nam”.
Việc tập trung quân đội
và vũ khí, dụng cụ chiến tranh với quy mô lớn đi đôi với những hành động vũ
trang xâm nhập lãnh thổ Việt Nma và những lời đe dọa chiến ranh của nhà cầm
quyền Trung Quốc đang làm cho tình hình trên toàn tuyến biên giới giữa Trung
Quốc và Việt Nam hết sức nguy hiểm.
Theo tin hãng ANSA từ
New York, ngày 23 tháng 1 năm 1979, “các chuyên gia Viễn Đông của chính quyền
Mỹ cho rằng, có khả năng các lực lượng lớn của Trung Quốc có kế hoạch mở một
cuộc xâm lăng vào Việt Nam”.
Tạp chí Tuần tin tức Mỹ
số ra ngày 28 tháng 1 năm 1979 dẫn một nguồn tn từ bộ ngoại giao Mỹ nói rằng:
“Việc tăng cường bố trí quân sự của Trung Quốc ở biên giới với Việt Nam có thể
làm người ta dự đoán một cuộc can thiệp quan trọng hơn là một cuộc biểu dương
lực lượng đơn thuần”.
Mọi người đều thất rõ
tính chất cực kỳ nghiêm trọng của những hành động vũ trang và những lời đe dọa
ngang ngược của nhà cầm quyền Trung Quốc đối với Việt Nam. Những người lãnh đạo
Bắc Kinh công khai đe dọa chiến tranh chống một nước độc lập, có chủ quyền, tự
cho mình có quyền dùng vũ lực chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Họ
đã phơi bày dã tâm thù địch Việt Nam và tham vọng của chủ nghĩa bành trướng dân
tộc lớn của họ ở Đông Nam châu Á.
Nhân dân Việt Nam và
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cực lực tố cáo và nghiêm khắc
lên án những hành động đe dọa chiến tranh của nhà cầm quyền Trung Quốc. Những
hành động phiêu lưu đó chứa đựng những hậu quả nguy hiểm không thể lường hết
được đối với hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á và trên thế giới. Những hành động
đó trái với Hiến chương Liên hợp quốc, vi phạm các nguyên tắc sơ đẳng của luật
pháp quốc tế, và là sự thách thức nghiêm trọng đối với nhân dân và các nước yêu
chuộng hòa bình, công lý trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam và Chính
phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tin chắc rằng nhân dân và Chính phủ các
nước bầu bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, tăng cường đoàn kết và ủng hộ
nhân dân Việt Nam, sẽ kịp thời ngăn chặn âm mưu và hành động chiến tranh của
nhà cầm quyền Bắc Kinh, không để họ đụng đến Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam luôn
luôn coi trọng tình hữu nghị lâu đời giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung
Quốc và kiên trì chủ trương giải quyết các vấn đề tranh chấp giữa hai nước bằng
thương lượng, nhưng quyết bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng
liêng của Tổ quốc và thành quả lao động hòa bình của mình.
Nhà cầm quyền Trung Quốc
thi hành chính sách thù địch với Việt Nam, gây ra tình hình căng thẳng trên
biên giới hai nước, họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những hành động phiêu
lưu nguy hiểm do họ gây ra.
Hà Nội, ngày 14 háng 2
năm 1979
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét