Kiều Linh
Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, ông Sebastian Eckardt, góp ý kiến về Dự thảo Luật Đặc khu kinh tế…
Phối cảnh đặc khu kinh tế Vân Đồn, Quảng Ninh.
Tại Hội thảo “Đặc khu – Thể chế, chính sách và kỳ vọng thành công” được tổ chức sáng 18/5, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, việc phát triển ba đặc khu kinh tế Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hoà), Phú Quốc (Kiên Giang) thể hiện Việt Nam mạnh dạn xây dựng sân chơi mới, luật chơi mới với thể chế chính sách vượt trội để cạnh tranh thu hút đầu tư trong nước và quốc tế ngay tại lãnh thổ Việt Nam.
Các đặc khu kinh tế này được định hướng phát triển với hai mục tiêu chính là hình thành 3 khu vực tăng trưởng kinh tế cao có tác động lan toả với khu vực và toàn bộ nền kinh tế, thu hút công nghệ cao với lĩnh vực cạnh tranh phù hợp về kinh tế, phát triển bền vững về môi trường, nâng cao đời sống người dân.
Đồng thời, chủ động tạo ra sân chơi mới với các thể chế chính sách đặc biệt thuận lợi, vượt trội, cạnh tranh quốc tế cho phát triển khởi nghiệp….
Để xây dựng và thu hút đầu tư vào đặc khu, Dự án Luật Đặc khu kinh tế được xây dựng trên cơ sở không trái với Hiến pháp, không ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, chủ quyền quốc gia, môi trường, sức khoẻ của người dân. Luật quy định quyền tự do kinh doanh những gì pháp luật không cấm gắn với chính sách vượt trội, cạnh tranh như ưu đãi về thuế và đất đai, tổ chức chính quyền, thẩm quyền người đứng đầu…
Dự án Luật Đặc khu sẽ trình Quốc hội xem xét, thông qua vào Kỳ họp thứ 5 tới.
Góp ý kiến về Dự thảo Luật Đặc khu kinh tế, ông Sebastian Eckardt, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhấn mạnh, 3 điểm thành công của đặc khu trên thế giới là địa điểm tốt, kết nối hạ tầng tốt và là nơi có môi trường chính sách tốt. Các khu kinh tế mới thực hiện từ năm 90 của thế kỷ trước, đặc khu kinh tế nổi tiếng nhất Thẩm Quyến, Thượng Hải (Trung Quốc) sau đó mô hình đặc khu này được làm phổ biến trên thế giới.
Tuy nhiên, những khu đặc khu kinh tế cũ thành công như ở Trung Quốc, Singapore… chưa chắc đã là kinh nghiệm tốt đối với Việt Nam.
Nếu áp dụng mô hình cũ, chúng ta sẽ gặp các rủi ro. Hạn chế đầu tư ở các đặc khu hiện nay là việc phân mảnh môi trường pháp quy, tạo ra sân chơi không bằng phẳng, chỉ có ở địa phương. Thứ nữa là hiệu ứng nghịch, một số ưu đãi về thuế có thể bị lạm dụng, điều này không có lợi.
“Quan trọng nhất, chúng tôi lo ngại là Việt Nam xây dựng và làm nhiều đặc khu khác nhau, điều này có thể phát sinh những “cuộc đua xuống đáy” của chính sách, ưu đãi. Thay vì đưa ra những chính sách bằng nhau thì các đặc khu cắt giảm khuôn khổ, xé rào chính sách. Điều này dẫn tới các ảnh hưởng không mong muốn, như tác động môi trường, thay đổi chuẩn mực môi trường”, ông Sebastian nói.
Vị này nhấn mạnh: Chúng ta không muốn nhìn thấy đặc khu như một hòn đảo tách rời khỏi đất nước. Chúng ta cần chú ý, để đảm bảo đầu tư vào đặc khu có đóng góp cho phát triển tổng thể ở Việt Nam bền vững hơn.
Kinh nghiệm quốc tế thành công thì đòi hỏi có chiến lược công nghiệp tổng thể, các yếu tố như môi trường, cơ sở hạ tầng chính sách cần đồng bộ, hiệu quả để đầu tư lan toả.
Đặc khu 1960 xây dựng là lúc kinh tế thế giới đóng, vì thế mà các ưu đãi thuế phát huy hiệu quả. Nhưng hiện nay Việt Nam là mở nhất thế giới, chúng ta phải tìm kiếm nguồn đầu tư và tài nguyên phát triển trong tương lai trong mối quan hệ mới, cần những chính sách mới thay vì chỉ cởi bỏ thuế quan.
Việt Nam đã có những cơ hội là nhân lực thấp, chế biến chế tạo. Trong tương lai, ông Sebastian cho rằng, chúng ta nên tập trung vào tạo ra công việc làm cho tương lai, năng suất cao, sáng kiến về chi phí và lợi ích. Hơn nữa, cần tập trung vào trách nhiệm giải trình, không nên tập trung vào ưu đãi thuế, phải định hướng vào các ngành chiến lược và tránh phân mảnh chính sách.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét