RFA
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis sẽ đến thăm Việt nam vào thứ Ba ngày 16/10 trong nỗ lực nhằm siết chặt quan hệ hơn nữa giữa Mỹ và Việt Nam nhằm đối phó với những hành động quân sự gây hấn của Trung Quốc trong khu vực, theo nhận định của các chuyên gia quốc tế.
Trong bài phân tích viết trên trang Scribd hôm 15/10, Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc nhận định: “Bộ trưởng Mattis sẽ tìm kiếm một mối liên minh tạm thời với các quốc gia trong khu vực, bao gồm Việt Nam, để đối lại với Trung Quốc. Việt Nam sẽ phải đối mặt với một môi trường đối đầu hơn giữa Trung Quốc và Mỹ cả trong khu vực và quốc tế”.
Chuyến thăm diễn ra giữa lúc có những căng thẳng trong quan hệ Mỹ và Trung Quốc trên cả hai lĩnh vực là thương mại và quốc phòng.
Hoa Kỳ mới đây đã tuyên bố đánh thuế lên khoảng 200 tỷ đô la hàng nhập khẩu của Trung Quốc. Trung Quốc trả đũa bằng việc áp thuế lên 60 tỷ đô la hàng hóa nhập từ Mỹ.
Bộ trưởng Mattis sẽ tìm kiếm một mối liên minh tạm thời với các quốc gia trong khu vực, bao gồm Việt Nam, để đối lại với Trung Quốc. - Gs. Carl Thayer
Về mặt quốc phòng, Trung Quốc thời gian qua đã gia tăng các hoạt động quân sự hóa khu vực Biển Đông là vùng nước tranh chấp giữa Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á bao gồm Việt Nam. Tại diễn đàn Shangri-la ở Singapore hồi đầu tháng 6 vừa qua, Bộ trưởng James Mattis đã gọi các hành động triển khai vũ khí ra các đảo ngoài Biển Đông của Trung Quốc là nhằm mục đích đe dọa quân sự và xâm lấn.
Để phản đối các hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, Hoa Kỳ đã không mời Trung Quốc tham gia cuộc tập trận chung RIMPAC vào tháng 7 vừa qua giữa các nước.
Mới đây nhất , vào hồi đầu tháng này, Trung Quốc đã điều tàu chiến ra gần tàu Decatur của Hải quân Mỹ khi tàu chiến Mỹ đi qua đá Gaven ở quần đảo Trường Sa trong chương trình Tự do Hàng hải mà Mỹ đã tiến hành ở Biển Đông trong vài năm qua.
Những căng thẳng trong quan hệ hai nước Mỹ Trung đã khiến chuyến thăm Bắc Kinh của Bộ trưởng Mattis dự kiến sẽ diễn ra trong lần công du châu Á này của ông bị hủy bỏ. Trung Quốc mới đây cũng từ chối đề nghị của Mỹ cho tàu chiến ghé thăm cảng Hong Kong.
Trong khi quan hệ Mỹ Trung xấu đi, quan hệ quốc phòng giữa Mỹ và Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong năm qua. Điển hình là chuyến thăm lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh Việt Nam của hàng không mẫu hạm Mỹ tới Đà Nẵng hồi tháng 3 vừa qua.
Việt Nam sẽ phải chịu sức ép hơn nữa trong việc tăng cường hợp tác quốc phòng với Mỹ, bao gồm cả việc chấp nhận cho phép tàu chiến Mỹ tới thăm các cảng thường xuyên hơn. - Gs. Carl Thayer
Chuyến thăm lần này của Bộ trưởng James Mattis tới Việt Nam là chuyến thăm thứ 2 trong năm nay. Chuyến thăm đầu diễn ra vào hồi tháng 1.
Giáo sư Carl Thayer viết rằng các chuyến thăm của Bộ trưởng James Mattis tới Việt Nam là theo Chiến lược về An ninh Quốc gia và Quốc phòng của Mỹ. Trong các chiến lược này, Mỹ đã bao gồm Việt Nam vào mạng lưới hợp tác quốc phòng để đối phó với những thách thức hiện có về an ninh trong khu vực, trong đó có những hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông. “Việt Nam sẽ phải chịu sức ép hơn nữa trong việc tăng cường hợp tác quốc phòng với Mỹ, bao gồm cả việc chấp nhận cho phép tàu chiến Mỹ tới thăm các cảng thường xuyên hơn”, Giáo sư Carl Thayer viết.
Hãng tin AP trích lời chuyên gia cao cấp về Châu Á của Hội đồng Quan hệ Nước ngoài của Mỹ, ông Josh Kurlantzick, nói rằngm Việt Nam đã đi gần hơn với một số những chính sách của Tổng thống Trump. Ý ông muốn nói đến Chiến lược Ấn Độ Thái Bình Dương đã được Tổng thống Trump lần đầu tiên đưa ra tại APEC hồi tháng 11 năm ngoái ở Đà Nẵng. “Ngoài Singapore, Việt nam là nước có nhiều nghi ngờ nhất về chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc và là đối tác tự nhiên nhất đối với Mỹ”, chuyên gia Kurlantzick được AP trích lời cho biết.
Vẫn còn những vấn đề nhạy cảm
Theo truyền thông trong nước, trong chuyến thăm lần này, Bộ trưởng James Mattis sẽ đến thăm sân bay Biên Hòa, một trong những điểm nóng về chất độc da cam còn lại sau chiến tranh Việt Nam. Chuyến thăm này cũng cho thấy sự ủng hộ của ông trong việc đề cập đến những tàn dư của chiến tranh.
Theo Giáo sư Carl Thayer, trong chuyến thăm lần này, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cũng sẽ bày tỏ sự ủng hộ của Mỹ đối với việc Việt Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan, cam kết tiếp tục thực hiện các hợp tác trong lĩnh vực tìm kiếm, cứu nạn.
Ngoài Singapore, Việt nam là nước có nhiều nghi ngờ nhất về chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc và là đối tác tự nhiên nhất đối với Mỹ. - Chuyên gia Josh Kurlantzick
Tuy nhiên, một trong những vấn đề nhạy cảm nhất được trông đợi bàn thảo lần này là đạo luật Chống những kẻ thù của Mỹ thông qua chế tài (CAATSA). Theo đạo luật này, Mỹ sẽ trừng phạt những nước nào mua vũ khí của Nga, trong khi Nga là nước cung cấp vũ khí hàng đầu cho Việt Nam. Bộ trưởng James Mattis, trước đó đã đề nghị Quốc hội Mỹ bỏ Việt Nam và Ấn Độ ra khỏi danh sách các nước bị trừng phạt. Theo Giáo sư Carl Thayer thì cho đến lúc này Hoa Kỳ vẫn chưa có quyết định chính thức về vấn đề này. “Điều này đặt ra câu hỏi liệu Việt Nam đã chuẩn bị để mua vũ khí đáng kể từ Hoa Kỳ hay chưa”, Giáo sư Carl Thayer viết.
Theo Giáo sư Carl Thayer, Việt Nam đã lặng lẽ bỏ hơn 15 hoạt động tương tác quốc phòng với phía Mỹ trong năm 2019. Theo ông, rất có thể quyết định này có liên quan đến việc Mỹ vận động Việt Nam mua vũ khí của Mỹ thay vì của Nga. “Việt Nam có thể coi hành động này là sức ép và can thiệp lên công việc nội bộ của mình”, theo Giáo sư Carl Thayer.
Việt Nam từ trước đến này vẫn duy trì chính sách độc lập trong quan hệ với các cường quốc. Trong khi tăng cường hợp tác quốc phòng với Mỹ, Việt Nam cũng có những lo ngại về người láng giềng Trung Quốc ở ngay sát cạnh. Đó là chưa kể thực tế là cả Việt Nam và Trung Quốc đều duy trì chế độ đảng Cộng sản là đảng lãnh đạo duy nhấ
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ thăm Việt Nam nhằm kiềm chế Trung Quốc
Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch (T) tiếp đồng nhiệm Mỹ James Mattis, Hà Nội, ngày 25/01/2018AFP / Hoàng Đình Nam
Tướng James Mattis chính thức thăm Việt Nam trong hai ngày 16 và 17/10/2018. Đây là lần thứ nhì trong năm 2018, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ tới Việt Nam.
Theo giới quan sát, Washington đặc biệt quan tâm đến Hà Nội trong nỗ lực kềm tỏa ảnh hưởng của Trung Quốc đối với khu vực.
Hãng tin Mỹ AP cho biết, ngoài các buổi làm việc tại Hà Nội, lãnh đạo Lầu Năm Góc dừng chân tại Thành Phố Hồ Chí Minh, lá phổi kinh tế của Việt Nam.
Theo chương trình nghị sự, trong hai ngày thăm Việt Nam, tướng Mattis cũng sẽ tới thăm căn cứ Không Quân Biên Hòa, hội đàm với bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch. Biên Hòa từng là một căn cứ Không Quân chính của quân đội Mỹ trong thời gian chiến tranh.
AP nhắc lại, lần trước bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ đến thăm Việt Nam là hồi tháng Giêng 2018. Ba tháng sau đó, tàu sân bay Mỹ USS Carl Vinson ghé thăm cảng Đà Nẵng. Đây cũng là lần đầu tiên tàu sân bay Mỹ trở lại Đà Nẵng từ sau chiến tranh. Các nhà phân tích cho rằng, cử chỉ này nhằm nhắc nhở Trung Quốc là Hoa Kỳ tăng cường quan hệ đối tác trong khu vực, vào lúc Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông.
Chuyến đi Việt Nam của tướng James Mattis lần này diễn ra trong bối cảnh căng thẳng Mỹ -Trung liên tục gia tăng cả về kinh tế lẫn quốc Phòng. Đôi bên vừa hủy một chuyến công du Bắc Kinh của bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ. Hãng tin Mỹ AP ghi nhận : quan hệ Mỹ - Trung càng xấu đi, đối tác giữa Hoa Kỳ với Việt Nam lại càng thêm vững chắc.
Chuyên gia về châu Á, Josh Kurlantzick, thuộc Hội Đồng Quan Hệ Quốc Tế (Council on Foreign Relations), được AP trích dẫn cho rằng chính sách đối ngoại và quốc phòng của Việt Nam, vốn thận trọng cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng trong những năm gần đây, có phần nghiêng về phía Hoa Kỳ.
Vẫn theo chuyên gia này, trong số các quốc gia Đông Nam Á, ngoại trừ Singapore, Việt Nam là "đối tác tự nhiên nhất của Mỹ" trong khu vực.
Tin đồn bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ bị thất sủng
Tướng Mattis đến Việt Nam vào lúc tại Washington, tổng thống Donald Trump không loại trừ khả năng thay thế bộ trưởng Quốc Phòng.
Trả lời đài truyền hình Mỹ CBS trong một chương trình được phát vào Chủ Nhật 14/10/2018, tổng thống Mỹ cho biết có quan hệ tốt với tướng Mattis, nhưng đồng thời, theo Donald Trump, James Mattis là "một dạng người thuộc cánh Dân Chủ". Chủ nhân Nhà Trắng để ngỏ khả năng "đến một lúc nào đó" sẽ để tướng Mattis "ra đi".
Trong cuốn sách công bố hồi tháng 09/2018, nhà báo Bob Woodward tiết lộ, tướng James Mattis từng có những chỉ trích rất mạnh mẽ nhắm vào Donald Trump. Trong mọi cuộc trả lời báo chí, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ luôn từ chối bình luận về quan hệ của ông với tổng thống Hoa Kỳ thứ 45.
Chắc chắn các cơ quan tình báo quân đội và Hoa Nam của Trung Quốc đang và sẽ đặc biệt theo dõi và phân tích động cơ lẫn mục đích chuyến thăm Việt Nam bất ngờ vào trung tuần tháng Mười năm 2018 của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis.
Chuyến công du Việt Nam của Jim Mattis diễn ra trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đang tiến vào giai đoạn căng thẳng của chiến dịch dựng đứng hàng rào thuế quan đầu tiên do Tổng thống Donald Trump là tổng đạo diễn, trong khi các hạm đội 7 và hạm đội 5 của hải quân Hoa Kỳ ngày càng áp sát Biển Đông, trong bối cảnh ngày 10/10/2018 Thượng Viện Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật cắt đứt đường lưỡi bò của Trung Quốc trên Biển Đông.
Còn tương lai về một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ tại khu vực này đang dâng lên như một cơn sóng thần cấp độ vừa phải.
Chuyến công du trên cũng là lần thứ hai liên tiếp trong vòng 10 tháng kể từ khi Jim Mattis nhận lãnh chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - một mật độ ‘thăm viếng’ khá dày đặc đối với quốc gia cách Mỹ đến nửa vòng trái đất.
Hiệu ứng USS Carl Vinson?
Lần đầu tiên Jim Mattis đặt chân đến Hà Nội là vào tháng Giêng năm 2018, tiếp liền sau chuyến đi Washington của Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch mà có thể hiểu như lời cầu cứu rõ như ban ngày: chính thể độc đảng ở Việt Nam liên tiếp bị ‘bạn vàng’ Trung Quốc gây sức ép cả về chiến thuật ‘ngoại giao tàu cá’ lẫn tàu hải giám và tàu quân sự vây bọc khu vực mỏ Cá Rồng Đỏ ở Bãi Tư Chính phía đông nam Việt Nam - một chiến dịch mà Bắc Kinh đã quá thành công trong việc ‘hù’ Việt Nam, khiến công ty dầu khí Repsol của Tây Ban Nha (liên doanh với Việt Nam) phải cuốn cờ tháo chạy khỏi mỏ dầu khí này.
Khi đó, tình cảnh của Bộ Chính trị Việt Nam thật chẳng khác gì ‘mỡ treo miệng mèo’: ngay cả dầu khí trong vùng biển được xem là ‘chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’ cũng không làm cách nào ‘ăn’ được.
Trong khi đó, Mỹ lại đang cần đến cái gật đầu của Việt Nam để phát triển triết lý ‘tàu Mỹ đi qua vô hại’ ở Biển Đông - như một cách lý giải của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho báo giới quốc tế, bắt đầu từ năm 2016 và vẫn tồn tại cho đến giờ. Tuy vậy, các hạm đội châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ không phải cần đến sự chuẩn thuận của giới chóp bu Việt Nam như một điều kiện cần, mà chỉ là điều kiện đủ trong bối cảnh dù Việt Nam có gật hay lắc thì các tàu chiến Mỹ cũng đã áp sát quần đảo Hoàng Sa - trên danh nghĩa là thuộc Việt Nam nhưng đã thuộc về sự chiếm cứ của ‘người đồng chí tốt’ từ hơn bốn chục năm qua.
Chỉ vài tháng sau chuyến đến Việt Nam lần đầu tiên của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis, đến tháng Ba năm 2018 đã hiện ra một hình ảnh chưa từng có tiền lệ kể từ thời điểm 1975: một hàng không mẫu hạm của Mỹ là USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng - vùng biển mà 5 năm trước lần đầu tiên đã có 3 tàu chiến của Mỹ cập bến để ‘giao lưu hải quân’ với phía Việt Nam.
Tuy nhiên, Trung Quốc không phải là tay mơ, đặc biệt liên quan đến những động tác tâm lý chiến. Chẳng bao lâu sau khi USS Carl Vinson hiện diện trong vùng biển Việt Nam, một hạm đội lớn của Trung Quốc với hàng không mẫu hạm Liêu Ninh đã tiến hành một cuộc tập trận phô trương, khiến giới lãnh đạo Việt Nam - vốn trước đó đã quen ‘thần phục’ sức mạnh Trung Quốc - hầu như ngay lập tức ‘tắt đài’.
Cho đến nay, khó có cơ sở nào để cho rằng việc xuất tướng của Jim Mattis đến Việt Nam, và cả USS Carl Vinson vào đầu năm 2018, đã mang lại một kết quả ‘tăng cường hợp tác quốc phòng song phương Việt - Mỹ’ như mong muốn.
Bởi hệ lụy sau đó đối với Việt Nam là không thể rõ ràng và chán ngán hơn: ngay sau khi hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson rút về nước và công ty Repsol của Tây Ban Nha cùng đối tác của nó ở Việt Nam một lần nữa thử khai thác dầu khí ở mỏ Cá Rồng Đỏ, nỗi nhục Bãi Tư Chính lại nổ ra lần thứ hai và phủ đầy khắp bộ mặt chính thể Việt Nam: một lần nữa Repsol phải tháo chạy khỏi mỏ dầu khí này sau khi Trung Quốc lại ra tay dọa dẫm. Và đó là lần mà Repsol có vẻ ‘một đi không trở lại’. Còn ‘bản lĩnh Việt Nam’ đã chỉ hiển hiện đến mức cúi đầu chấp nhận bồi thường cho Repsol hơn 200 triệu USD chi phí ban đầu, nhưng đã không thể, và trong thực tế là còn lâu mới dám hó hé trước sức ép ngày càng thô bạo của Trung Quốc.
Song Cá Rồng Đỏ không phải là nạn nhân duy nhất của đường lưỡi bò mà Trung Quốc vừa vẽ lại và đã liếm qua gần hết các lô dầu khí mà Việt Nam dự định khai thác để bù đắp cho cái túi thủng ngân sách đang rộng ngoác như hàm cá mập, cũng như để cứu vãn cho tình trạng cạn kiệt ngoại tệ để trả nợ nước ngoài và còn chi cho nhiều nhu cầu khác của đảng cầm quyền. Mỏ Cá Voi Xanh - một dự án ở ngoài khơi Quảng Nam - Quảng Ngãi liên doanh với tập đoàn dầu khí lớn nhất của Mỹ là Exxonmobil, và cả mỏ Lan Đỏ - liên doanh giữa Vietsopetro của Việt Nam với tập đoàn dầu khí lớn của Nga là Rosneft, cũng lần lượt bị Trung Quốc gây sức ép phải chấm dứt khoan thăm dò hay khoan khai thác.
Chưa bao giờ ‘bản lĩnh Việt Nam’ bị thách thức và đe dọa đến thế: tiền nằm ngay trong túi mà không làm sao lấy ra được.
Trong suốt thời gian trên, giới chóp bu Việt Nam còn bị hành hạ không ngớt bởi cái bóng của Vương Nghị - ngoại trưởng Trung Quốc với gương mặt lạnh như tiền - và lời đề nghị như thể chiếu chỉ của họ Vương về ‘Trung Quốc và Việt Nam cùng hợp tác khai thác dầu khí trên biển’. Nếu chấp nhận đề nghị này, giới chóp bu Việt Nam đương nhiên phải mời kẻ cướp vào nhà mình và tự nguyện dâng hiến tài sản cho y.
Cho đến tháng Mười năm 2018 và trước khi có tin về chuyến thăm Việt Nam của Jim Mattis, toàn bộ thông tin về việc khai thác các mỏ Cá Rồng Đỏ, Cá Voi Xanh và Lan Đỏ vẫn ngậm tăm.
Thậm chí, chuyến thăm Nga của ‘đảng trưởng’ Nguyễn Phú Trọng vào tháng Chín năm 2018 có vẻ chẳng mang lại kết quả khả quan nào. Mặc dù trong các văn bản được ký kết giữa hai bên có đề cập đến cơ chế khai thác dầu khí, dường như Tổng thống Putin đã không có tác động nào đối với đồng minh Trung Quốc để Bắc Kinh nương tay cho Việt Nam cùng Tập đoàn Rosneft khai thác dầu khí ở mỏ Lan Đỏ.
Một tháng sau đó, Hội nghị trung ương 8 của đảng cầm quyền diễn ra ở Việt Nam, với một trong những nghị quyết đáng chú ý là “chiến lược lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để từng bước đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, dựa vào biển và hướng ra biển”.
Nhưng vì sao phải ‘hướng ra biển’?
Đáp số Cam Ranh?
Về thực chất, tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam đã hầu như cạn kiệt, bao gồm cảnh nạn khai thác khoáng sản vô thiên lủng từ nhiều năm qua, trong khi độ che phủ rừng thực tế đã giảm xuống dưới 20% và khiến Việt Nam, thay vì xuất khẩu gỗ như cách đây ba chục năm, đã và đang phải nhập khẩu gỗ từ các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Chỉ còn biển và trữ lượng dầu khí dưới biển là còn tiềm năng để mang lại ngoại tệ cứu đảng trong một thời gian có hạn, có thể chỉ đến năm 2022.
Chẳng phải tự nhiên mà trong một kỳ họp quốc hội vào năm 2017 - trùng thời gian với ‘nỗi nhục bãi Tư Chính’ lần đầu tiên, một số ‘nghị gật’ đã đề nghị tăng sản lượng khai thác dầu khí hàng năm từ 1,5 triệu tấn lên 2,5 triệu tấn hoặc thậm chí hơn thế.
Hẳn là người Mỹ cũng biết khá rõ là trong túi Việt Nam còn được bao nhiêu tiền, và làm thế nào để có được ngoại tệ trả nợ nước ngoài.
Chính sách thương mại của Mỹ dưới thời Donald Trump ngày càng thực dụng. Bên lề cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung đang bùng nổ, Việt Nam chỉ là một con muỗi mà sẽ quá dễ dàng bị đập nát bét chỉ với nguyên tắc ‘công bằng và đối ứng’ của Trunp - tức thực thi một hàng rào thuế quan cao ngất mà sẽ khiến con số xuất siêu trên 30 tỷ USD mỗi năm của hàng Việt Nam vào thị trường Mỹ lao dốc ít nhất 60 - 70%.
Một lần nữa, quan điểm ‘giãn Trung, dựa Mỹ’ lại trỗi dậy trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam. Bây giờ không còn là lúc đu dây, mà phải dùng toàn bộ ‘trí tuệ’ của đảng để xác quyết ‘kẻ thù số một’ và ‘kẻ thù số 2’ - ai mạnh hơn.
Một cách nào đó, Việt Nam sẽ ‘đi lên từ biển, hướng ra biển và làm giàu từ biển’ bằng sức mạnh của hải quân Mỹ.
Triết lý ‘tàu Mỹ đi qua vô hại ở Biển Đông’ gần ba năm về trước xem ra không còn phù hợp với quan niệm của giới ngoại giao Việt Nam. Mà biết đâu đấy sẽ là khái niệm ‘tàu Mỹ đi qua có ích ở Biển Đông’ trong tương lai gần.
Nhưng nếu cả sự hiện diện của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ mà còn không dọa nổi Trung Quốc, sẽ cần đến chiến thuật gì khác?
Muốn ‘bảo kê’ cho Việt Nam khai thác dầu khí, Mỹ cần đến một sự hiện diện nhiều hơn và hẳn phải đầy đủ hơn là những cuộc ‘giao lưu hải quân’, ‘tập trận giả’ chỉ có bề ngoài hào nhoáng như trước đây.
Cam Ranh chăng?
Nếu lần đầu tiên Jim Mattis đến Việt Nam chỉ mới chứng kiến cái nhu cầu quá thiết thân và quá khẩn cấp của chính thể cộng sản nhằm giành giật từng tấn dầu khí với ‘người đồng chí tốt’ Trung Quốc, thì lần này Việt Nam còn phải hứng chịu dư chấn của cơn bão chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và nguy cơ một cuộc xung đột quân sự giữa hai nền kinh tế nhất nhì thế giới này.
Không loại trừ việc Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis đến Hà Nội vào trung tuần tháng Mười năm 2018 sẽ nhắm đến một cách thực chất việc tăng cường sự hiện diện của tàu Mỹ tại vùng biển Việt Nam, trong đó có quân cảng Cam Ranh, với một thái độ và mức độ nhượng bộ nào đó của Việt Nam để có thể ‘đưa quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ lên một tầm cao mới’ - như lối nói đãi bôi chẳng biết chừng nào mới sửa được của thói đầu môi chót lưỡi Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét