Hàng năm vào dịp tháng 7 về, rất nhiều CCB của Mặt trận
Vị Xuyên-Hà Tuyên năm xưa, lòng lại cảm thấy quặn thắt, nhói đau; họ lại tìm đường
trở lại Vị Xuyên, trở lại chiến trường máu lửa năm xưa để thăm viếng, gặp lại
và tưởng niệm hương hồn hơn 5000 đồng đội của mình, những người anh hùng đã ngã
xuống trong cuộc chiến chống 60 vạn quân Trung Quốc xâm lược 1979-1991…
Mặt trận Vị Xuyên-Hà Tuyên năm xưa ấy, khi quân Trung
Quốc dồn về đây gần 30 sư đoàn của 8/10 đại quân khu; bằng toàn quân Mỹ đưa vào
miền nam thời điểm căng thẳng nhất, mục tiêu để đánh phá ác liệt mảnh đất Vị
Xuyên dài quãng 20 km sâu có chỗ tới 5 km…
Chiến địa Vị Xuyên-Hà Tuyên nay là Hà Giang đấy đã ghi
dấu biết bao chiến tích anh hùng của những người con ưu tú của dân tộc; phần lớn
họ ngã xuống ở cái lửa tuổi ngoài đôi mươi. Hộ đã chống trả dũng cản, kiên cường
60 vạn quân Trung Quốc xâm lược. Tại Vị Xuyên, phía Việt Nam đã lần lượt đưa
lên Vị Xuyên 9 sư đoàn với quãng 20 vạn quân để sống mái với kẻ thù…
Trên chiến trường Vị Xuyên, bình quân mỗi người lính Vị
Xuyên phải chống trả với 30 tên lính Trung Quốc, theo một tổng kết trên mang của
các CCB Trung Quốc…
Vị Xuyên Hà Giang đã nghiễm nhiên trở thành như một “chiến
tuyến Sông Cầu” của thời Lý, một “chiến địa Bạch Đằng” thời Ngô Vương Quyền, thời
Trần; ”một Chi Lăng”, “Xương Giang” thời Lê, “một Đống Đa” thời Nguyễn Tây Sơn,
“một Điện Biên Phủ”…thời Hồ Chí Minh-Võ Nguyên Giáp…
Chiến địa Vị Xuyên xứng đáng được sử sách vinh danh như
bao chiến địa-chiến tích anh hùng khác của đất nước, dân tộc. Đáng tiếc các nhà
chép sử Việt hiện thời, (có vẻ như được hưởng lương và phụ cấp của Tàu), nên họ
đang làm ngơ, tìm mọi cách loại bỏ cuộc chiến bảo vệ Vị Xuyên oai hùng; Cuộc
chiến đó đã phải trả băng sinh mạng, máu xương của hàng vạn người lính, của hàng
vạn bà con các dân tộc Vị Xuyên…
Do việc làm thất nhân tâm của các nhà chép sử trong
biên chế của nhà nước, chúng tôi những nhà chép sử nghiệp dư buộc phải vào cuộc
vì không chịu “đầu hang” sự ngang trái này. Chúng tôi vẫn bền bỉ sưu tầm, tìm
cách in ấn và phổ biến nó dưới mọi hình thức…kể cả bằng phương tiện nghiệp dư
nhất.
Đầu năm 2019, dịp Đảng và nhà nước cho phép tổ chức Kỷ
niệm 40 năm chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc, một hội thảo do 1 cơ quan chức
năng của Nhà nước đứng ra tổ chức, đầu tư kinh phí cho nhiều tham luận, nhưng
cái cuộc hội thảo đó như một cuộc hội kín. Nhiều tướng lĩnh, những người từng
tham gia cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược đã bất bình vì họ không được mời
dự, không được tham luận. Một số tướng lĩnh đã viết đơn gửi Ban Tuyên giáo TW,
phản đối cách tổ chức hội thảo về Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới nổ ra cách
đây 40 năm…
“Vị Xuyên Hà Tuyên” với những lời thề quyết tử của những
người lính: “ SỐNG BÁM ĐÁ; CHẾT HÓA ĐÁ…BẢO VỆ BIÊN CƯƠNG TỔ QUỐC” ( Câu khắc
vào bang súng của Trung đội trưởng, Anh hùng Nguyễn Viết Ninh-F 356); “GIẶC TÀU
PHÁI ĐÁNH, KHÔNG THẮNG KHÔNG VỀ”- Lời thề trước trận xuất quân đánh cảm tử cao
điểm 300-400 của Tiểu đoàn trưởng, Liệt sĩ Nguyễn Xuân Thuyên- E 149-F 356; (chưa
được phong Anh Hùng); Là hành vi chấp nhận hy sinh, lao lên đạo đổ cờ của quân
Trung Quốc cắm trên cao điểm 685 của Anh hùng y tá, Lê Trần Mãn; Là tấm gương của
Đại đội trưởng Nguyễn Văn Minh ( F 356), bị thương nặng 2/4 trong trận
12/7/1984, bị thất lạc vẫn tự bò về đơn vị mất 6 ngày 5 đêm trên 1 cung đường
quãng 400 m; Dọc đường đi vừa bứt có bứt lá, nhổ mía ăn cầm hơi…cho tới khi được
đồng đội tìm thấy…
Vị Xuyên với những ngọn núi đá vôi như cao điểm 685 được
mệnh danh là “Lò Vôi thế kỷ” vì bị pháo 2 bên bắn phá thành vôi, bạt thấp tới 3
m; Đó là những khúc suối được mệnh danh là “Suối gọi Hồn” ; Đó là những cao điểm
được mệnh danh là “ Đồi thịt băm” ( Cao điểm 772, nơi hơn 600 cán bộ, chiến sĩ
của E 876, F 356 ngã xuống trọng trận 12/7/1984; Hay có vị trí được coi là “ Cối
xay thịt”-( Ngã ba Thanh Thủy)…
Tháng 7/2019, xin đưa lại một vài ghi chép của các CCB
Vị Xuyên về trận đánh mang Mật danh MB 84, nhân tròn 35 năm Tưởng niệm chiến dịch quân sự đau thương, đẫm
máu này: 1200 cán bộ chiến sĩ đã ngã xuống trong ngày 12/7/1984.
Cửa hang Nà Cáy, Trạm phẫu tiền phương thời chiến tranh; Người góc phải là CCB Nguyễn Xung Kích...
Mở đầu, xin đưa lại bài thơ của CCB-F 313 Trần Nam
Thái, tác giả là 1 lính vận tải của F 313. Anh ghi lại những gì anh nhìn thấy
và xúc cảm của anh trước máu xương của đồng đội tại Trạm phẫu tiền phương Nà
Cáy, đặt ở cây số 17 quốc lộ 2 từ Thành phố Hà Giang lên cửa khẩu Thanh Thủy:
NÀ CÁY, MÙA THU
KHÔNG BÌNH YÊN!
Mấy hôm rồi không
một chuyến xe lên
Nà Cáy buồn quay quắt
Xác tử sỹ chất đầy bãi đất
Qua một đêm thôi chuột móc hết mắt rồi
Trên thân xác đã trương lên nhung nhúc những đàn giòi
Và ngờm ngợp những đám mây ruồi nhặng
Gió từ dưới sông Lô và đường quốc lộ 2 thốc lên dè dặt
Gió từ đỉnh 812, dông 673 phía trên kia đổ xuống ào ào
Những cơn gió vô tâm, những cơn gió vô tình như cuộn vào nhau
Xộc vào toang hoác xác thân những người lính đã ngã xuống
Xộc vào hoang hoải bần thần tim óc những người lính đang còn sống
Ngách đá kho hậu cần trống rỗng
Gạo mắm đã chia đến từng căn hầm
Khe suối mùa khô chắt nước âm thầm
Quần áo lính giặt xong càng đỏ bầm màu đất
Mảnh đạn dọc ngang chém áo quần rách nát
Suối cũng oằn mình đội pháo giặc suốt ngày đêm
Nà Cáy buồn quay quắt
Xác tử sỹ chất đầy bãi đất
Qua một đêm thôi chuột móc hết mắt rồi
Trên thân xác đã trương lên nhung nhúc những đàn giòi
Và ngờm ngợp những đám mây ruồi nhặng
Gió từ dưới sông Lô và đường quốc lộ 2 thốc lên dè dặt
Gió từ đỉnh 812, dông 673 phía trên kia đổ xuống ào ào
Những cơn gió vô tâm, những cơn gió vô tình như cuộn vào nhau
Xộc vào toang hoác xác thân những người lính đã ngã xuống
Xộc vào hoang hoải bần thần tim óc những người lính đang còn sống
Ngách đá kho hậu cần trống rỗng
Gạo mắm đã chia đến từng căn hầm
Khe suối mùa khô chắt nước âm thầm
Quần áo lính giặt xong càng đỏ bầm màu đất
Mảnh đạn dọc ngang chém áo quần rách nát
Suối cũng oằn mình đội pháo giặc suốt ngày đêm
Mấy hôm rồi không thấy xe lên
Cả thung lũng sặc sụa mùi khói đạn
Vách đá trên cao đạn cào trắng toát
Mặt đất dưới sâu đá lật ngổn ngang
Những căn hầm trúng đạn vỡ tan hoang
Những mái nhà âm cháy thành than trơ trụi
Thấp thoáng bóng người lầm lụi
Vác đá, chặt cây, đào đất khoét hầm
Hang phẫu ngổn ngang lính nằm
Những vết thương đỏ máu
Những cuộn băng đỏ máu
Áo Blu quân y đỏ máu
Khắp lòng hang sực lên mùi máu, mùi cồn
Điện thoại đổ chuông từng nhịp dập dồn
Tin báo về chuẩn bị đón thương binh từ phía trước
Bác sỹ gầm lên hết băng, hết thuốc
Y tá ngẹn ngào hết sạch nước truyền
Lại phải cho người chạy bộ xuống Làng Pinh
Lấy tạm vài cơ số thuốc
Bên kia bờ khe nước
Lính vận tải nối nhau lục tục lên đường
Ba lô đạn nhọn đè nặng trên lưng
Đòn tre cáng thương, dài ngoằng chổng ngược
Manh võng cáng thương ướt đẫm từ chuyến trước
Phập phờ rỏ nước thối xuống khắp người
Đường xe lên đất đá tơi bời
Hố pháo mới chồng lên hố pháo cũ
Mảnh đạn ngổn ngang bên cây cỏ xới nhào
Có mảnh lẹm sắc như dao
Có mảnh nhọn hơn lá lúa
Chạm vào là máu ứa
Chạm vào là rách thịt da
Những bàn chân mang giày vải vẫn xầm xập chạy qua
Lưng còng xuống, mặt ngẩng về phía trước
Nơi ấy đang cần đạn
Nơi ấy thương binh chờ
Vượt ngã ba cửa tử
Vào Hang Dơi, Làng Lò
Những gương mặt lính sáng lên, rồi lại thẫn thờ
Chẳng có gì đâu trong ba lô toàn đạn nhọn
Bởi mấy hôm rồi chẳng có chuyến xe lên
Những dấu hỏi hằn gương mặt sạm đen
Nỗi buồn tủi ẩn trong lời cảm thán :
Cả thung lũng sặc sụa mùi khói đạn
Vách đá trên cao đạn cào trắng toát
Mặt đất dưới sâu đá lật ngổn ngang
Những căn hầm trúng đạn vỡ tan hoang
Những mái nhà âm cháy thành than trơ trụi
Thấp thoáng bóng người lầm lụi
Vác đá, chặt cây, đào đất khoét hầm
Hang phẫu ngổn ngang lính nằm
Những vết thương đỏ máu
Những cuộn băng đỏ máu
Áo Blu quân y đỏ máu
Khắp lòng hang sực lên mùi máu, mùi cồn
Điện thoại đổ chuông từng nhịp dập dồn
Tin báo về chuẩn bị đón thương binh từ phía trước
Bác sỹ gầm lên hết băng, hết thuốc
Y tá ngẹn ngào hết sạch nước truyền
Lại phải cho người chạy bộ xuống Làng Pinh
Lấy tạm vài cơ số thuốc
Bên kia bờ khe nước
Lính vận tải nối nhau lục tục lên đường
Ba lô đạn nhọn đè nặng trên lưng
Đòn tre cáng thương, dài ngoằng chổng ngược
Manh võng cáng thương ướt đẫm từ chuyến trước
Phập phờ rỏ nước thối xuống khắp người
Đường xe lên đất đá tơi bời
Hố pháo mới chồng lên hố pháo cũ
Mảnh đạn ngổn ngang bên cây cỏ xới nhào
Có mảnh lẹm sắc như dao
Có mảnh nhọn hơn lá lúa
Chạm vào là máu ứa
Chạm vào là rách thịt da
Những bàn chân mang giày vải vẫn xầm xập chạy qua
Lưng còng xuống, mặt ngẩng về phía trước
Nơi ấy đang cần đạn
Nơi ấy thương binh chờ
Vượt ngã ba cửa tử
Vào Hang Dơi, Làng Lò
Những gương mặt lính sáng lên, rồi lại thẫn thờ
Chẳng có gì đâu trong ba lô toàn đạn nhọn
Bởi mấy hôm rồi chẳng có chuyến xe lên
Những dấu hỏi hằn gương mặt sạm đen
Nỗi buồn tủi ẩn trong lời cảm thán :
"Hay là đã quên ? Hay là đã bán ?
Hay là đã chán ? Hay là phủi tay ?..."
Hay là đã chán ? Hay là phủi tay ?..."
Gạt đi giọt nước mắt cay
Tay khẽ khàng đặt thương binh lên võng
Lại vượt qua suối sâu, đường lộ thiên, bãi trống
Mang tai bập bùng tiếng nổ, tiếng rên đau
Mặc kệ đạn trên cao
Mặc kệ đạn dưới thấp
Nghe tiếng đạn quen mới nằm xấp xuống mặt đường
Đá đập vào người, đá thúc vào xương đau nhức
Đợi đến khi đạn dứt
Lại tất tưởi chồm lên, vai nặng trĩu đòn khiêng
Những thân người chạy liêu siêu ngả nghiêng
Hướng về phía Nà Cáy
Đoạn đường dốc lên đạn pháo cày nát bấy
Đã có lính nào sửa sang
Mùi máu, mùi cồn vẫn nồng nực trong hang
Lính bị thương nằm ngổn ngang dồn đống
Thở phào vì thương binh vẫn sống
Tay lại khẽ khàng gỡ khỏi võng với đòn tre
Bãi tử sỹ nằm bên cạnh bờ khe
Hình như đã nhiều hơn lúc trước
Lại nghe đâu đây rúc rích tiếng chuột
Những con chuột đói khát, những con chuột vô tâm
Lần bước đến nơi tử sỹ đang nằm
Bê những mảng đá to đặt đè lên từng khuôn mặt
Che đi những quầng mắt đã lặng ngủ im
Che đi những con mắt không thể nào khép lại
Cơn gió mùa Thu như lồng lên quằn quại
Hình như gió cũng rưng rưng
Mấy hôm rồi mà chẳng thấy xe lên
Chẳng biết đêm nay có chuyến nào tới được
Để đón anh em về một chốn bình yên
Để đưa anh em về trước...
Tay khẽ khàng đặt thương binh lên võng
Lại vượt qua suối sâu, đường lộ thiên, bãi trống
Mang tai bập bùng tiếng nổ, tiếng rên đau
Mặc kệ đạn trên cao
Mặc kệ đạn dưới thấp
Nghe tiếng đạn quen mới nằm xấp xuống mặt đường
Đá đập vào người, đá thúc vào xương đau nhức
Đợi đến khi đạn dứt
Lại tất tưởi chồm lên, vai nặng trĩu đòn khiêng
Những thân người chạy liêu siêu ngả nghiêng
Hướng về phía Nà Cáy
Đoạn đường dốc lên đạn pháo cày nát bấy
Đã có lính nào sửa sang
Mùi máu, mùi cồn vẫn nồng nực trong hang
Lính bị thương nằm ngổn ngang dồn đống
Thở phào vì thương binh vẫn sống
Tay lại khẽ khàng gỡ khỏi võng với đòn tre
Bãi tử sỹ nằm bên cạnh bờ khe
Hình như đã nhiều hơn lúc trước
Lại nghe đâu đây rúc rích tiếng chuột
Những con chuột đói khát, những con chuột vô tâm
Lần bước đến nơi tử sỹ đang nằm
Bê những mảng đá to đặt đè lên từng khuôn mặt
Che đi những quầng mắt đã lặng ngủ im
Che đi những con mắt không thể nào khép lại
Cơn gió mùa Thu như lồng lên quằn quại
Hình như gió cũng rưng rưng
Mấy hôm rồi mà chẳng thấy xe lên
Chẳng biết đêm nay có chuyến nào tới được
Để đón anh em về một chốn bình yên
Để đưa anh em về trước...
(Nà Cáy -.Thanh Thủy - Mùa
Thu 1986 )
Rút từ: VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT-TRUNG
Liên hệ
Hoanghtham9@gmail.com
ĐT: 0382598746
1 nhận xét:
Xin thắp một nén tâm nhang trước anh linh của các liệt sỹ mặt trận Vị Xuyên tháng 7/1984! Những đồng đội của tôi những ngày tháng gian khổ, khốc liệt ấy!
Đăng nhận xét