Thứ Ba, 21 tháng 6, 2016

Tổ chức xã hội và bộ máy quản lí hành chính tỉnh Hà Giang trước tháng 8-1945; Chính sách miền núi của các triều đại phong kiến và hệ quả đối với đời sống xã hội Sơn La


This entry was posted on Tháng Sáu 20, 2016, in Lịch sử Việt Nam and tagged ,, , , , . Bookmark the permalink. Để lại bình luận


indochina_eth_1970.jpg
                                                                Khổng Đức Thiêm
I . KHU VỰC NGƯỜI TÀY – NÙNG
BAN DO HA GIANG.gif
1.1. Người Tày – Nùng và chính sách dân tộc của nhà nước phong kiến
Là một trong những dân tộc, những chủ nhân đầu tiên có mặt từ thời kỳ Văn Lang – Âu lạc, do đó từ xa xưa, người Tày đã được mệnh danh là Thổ dân, dân Thổ trước trên một dải biên thùy, suốt một mạch từ Tuyên Quang, Hà Giang đến Cao Bằng, Lạng Sơn. Đây cũng là những danh xưng khẳng định về tính chất bản địa lâu đời của người Tày trên đất Hà Giang.

Người Nùng tuy cùng gốc nhóm với người Tày nhưng lớp đến trước hầu như đã bị Tày hóa còn lớp đến sau xuất hiện ở địa phương muộn tới hàng chục thế kỷ, chia thành nhiều nhóm khác nhau như Nùng Dín tập trung nhiều ở Hoàng Su Phì, Xín Mần, Vị Xuyên; Nùng Xuồng ở Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ; Nùng An ở Vị Xuyên, Bắc Quang.
Tựa lưng vào núi rừng, hướng về phía thung lũng, tập hợp vài ba dòng họ với nhau, người Tày – Nùng dựa nên các bản với độ dăm, ba chục nóc nhà, có đường ranh giới riêng. Mỗi một bản như thế nơi thì nhà cửa nối dài rải rác, nơi thì mật tập quy tụ theo sông suối.Nhiều bản trong một khu vực hợp nhau thành mường. Mối quan hệ giữa bản này với bản khác tạo thành mối quan hệ liên bản – đồng đẳng giữa các đơn vị xã hội đồng cấp. Dần dần, cùng với tiến trình lịch sử, nhiều bản – mường liên kết với nhau, tạo ra mối quan hệsiêu bản, điều này có nghĩa là bên cạnh các đơn vị xã hội đồng cấp còn có mô hình chính trị – xã hội lớn hơn, hay nói khác đi là mô hình sơ khai của nhà nước đã xuất hiện với tên gọi khá quen thuộc trong xã hội người Tày – Nùng, đó chính là chế độ Quằng. Quằng là biểu hiện, là hệ quả tất yếu của mối quan hệ siêu bản, tuy được hình thành trên cơ sở vài ba chục bản nhưng đều có phạm vi lãnh thổ và hệ thống luật tục riêng. Đứng đầu các liên bản, siêu bản (mường, châu) là các Quằng thế tập, các chúa đất và chủ linh hồn của toàn khu vực, dù cho về mặt danh nghĩa, người Tày – Nùng không có lãnh thổ riêng nhưng mỗi bản làng truyền thống đều có một phạm vi cư trú được xác định bao gồm đất ở, đất canh tác, các loại rừng và đất rừng, các nguồn nước.
Chế độ Quằng xuất hiện trong xã hội người Tày – Nùng trước khi nhà Lý ra đời. Nhờ điều kiện địa lý và lịch sử có những nét khác biệt so với khu vực trung châu, bên cạnh đó là trình độ về kinh tế và xã hội còn thấp nên các Quằng – thường được gọi là Thổ tù hoặc Tù trưởng vẫn đóng vai trò lớn trong việc kiểm soát toàn bộ quyền lực ở khu vực miền núi phía Bắc. Cho nên ta không lầy làm ngạc nhiên, nhà Lý vẫn để các Tù trưởng cai quản địa phương theo tập quán pháp – luật tục của họ. Để duy trì ảnh hưởng của mình đến các khe động dọc theo biên giới, vua Lý chủ trương kết thân với các Tù trưởng, Động trưởng, Tộc trưởng thông qua việc ban chức tước cao cho họ (Giáp Thừa Quý ở Lạng Châu, Vi Thủ An ở Tô Mậu, Hoàng Kim Mãn ở Môn Châu, Nùng Tồn Phúc ở Thảng Do, Nùng Tồn Lộc ở Vạn Nhai, Dương Đạo ở Vũ Lặc, Nùng Trí Cao ở Tư Lăng, Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Hà Hưng Tông ở Vị Long). Hơn thế nữa, như học giả Hoàng Xuân Hãn đã chỉ ra trong biên khảo Lý Thường Kiệt: “Vua Lý không chia rẽ Hoa Di và đã lợi dụng sự hôn nhân để liên kết các dân tộc biên thùy”[1].
Nhận định trên của Hoàng Xuân Hãn là chân xác. Momoki Shiro – Phó giáo sư tại Đại học Osaka (Nhật Bản) trong luận văn Gia đình các vua nhà Lý và sự xuất hiện của Vương triều phụ hệ ở Việt Nam trình bày tại Hội thảo Quốc tế lần thứ nhất về Việt Nam học (7-1998)xác nhận thêm:
“Vai trò chính trị của các phụ nữ, kể cả các con gái nuôi, trong gia đình các vua Lý nhiều khi được coi là công cụ cho chính sách liên minh nhờ vào các cuộc cưới gả cho những nhân vật có thế lực ở địa phương (Châu mục, Thủ lĩnh v.v…). Qua việc này, vua có thể xây dựng và duy trì quan hệ đồng minh với các thế lực địa phương. Hiện tượng “đồng minh hôn nhân” với thế lực ở Lạng Châu (Bắc Giang và Lạng Sơn ngày nay), là thế lực khống chế đường bộ đi Quảng Tây, đã được các tài liệu ghi chép nhiều nhất. Năm 1027, Lý Công Uẩn (Thái Tổ) ra lệnh cho một người em trai đánh vào lãnh tổ Trung Quốc ở vùng Quảng Tây với sự hướng dẫn của con rể Công Uẩn là Thân Thừa Quý – theo Việt Sử lược, Bình Dương công chúa cưới Thân Thiệu Thái là Lang Châu mục (năm 1029), và con trai của bà là Thân Đạo Nguyên cưới Thiên Thành công chúa vào năm 1066. Năm 1059, Thánh Tông đã đến thăm nhà của phò mã là Thân Cảnh Nguyên. Năm 1167, Thiên Cực công chúa (con gái của Anh Tông?) cũng cưới một nhân vật mang tước hiệu Lang Châu mục Hoài Trung hầu. Ngoài ra, Dương Cảnh Thông, người được bổ nhiệm làm Lang Châu mục (Việt Sử lược), cũng được gọi là Phò mã lang (Đại Việt Sử ký toàn thư).
Như đã giới thiệu, con gái nuôi của Thánh Tông được gả cho họ Lê ở Chân Đăng châu, và mẹ đẻ của Anh Tông cũng thuộc họ này. Năm 1036 (Việt Sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư), Khánh Thành công chúa (hoặc Kim Thanh), cưới Phong Châu mục (Phong Châu nằm ở bên cạnh Chân Đăng châu) là Lê Thuận Tông. Phía sau họ Lê ở vùng Vĩnh Phú ngày nay có họ Hà ở Vị Long châu (Tuyên Quang ngày nay), khống chế đường bộ đi Vân Nam. Ở đấy, Hà Di Khánh đã cưới Khâm Thánh công chúa (em gái của Nhân Tông), và Hà Công Phụ đã cưới Hoa Dương công chúa (Việt Sử lược). Giữa họ Hà còn có Hà Thiện Lãm là Thượng Uy châu mục (không rõ ở chỗ nào), đã cưới Trường Ninh công chúa (Đại Việt Sử ký toàn thư). Ở các vùng khác, Dương Tự Minh, một thủ lĩnh của Phú Lương châu (Thái Nguyên ngày nay), cưới được hai công chúa là Diên Bình công chúa (năm 1127) và Thiều Dung công chúa (năm 1142 – đều theo Đại Việt Sử ký toàn thư).
Khi cưới Khâm Thánh công chúa, Hà Di Khánh mới lên mười tuổi. Đồng minh hôn nhân có ý nghĩa quyết định để vua có thể khống chế các địa phương bởi vì các thành viên nam của gia đình vua thời Lý, khác với thời Tiền Lê và thời Trần ít khi đóng ở địa phương. Do đó các cuộc cưới gả giữa những người con trai thuộc các dòng họ có thế lực với các công chúa có thể được tiến hành ngay từ khi họ còn rất ít tuổi. Hơn nữa, sự điều động của con rể và qua đó những người cùng họ và thuộc hạ, có ý nghĩa quan trọng ngay cả ở thủ đô, như trường hợp Dương Tự Minh cầm đầu lực lượng chống lại Đỗ Anh Vũ vào nửa đầu đời Anh Tông”[2].
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Q.II.33) cũng ghi nhận: “Năm Kỷ Tỵ (1029)… thời bấy giờ không đặt tiết trấn; các việc quân sự và dân sự ở các châu đều do Châu mục cai quản. Các châu miền thượng du lại giao cho bọn Tù trưởng địa phương quản lãnh. Nhà vua sợ khó khống chế được họ nên mới kết mối giao hảo bằng cuộc hôn nhân để ràng buộc họ, từ đó việc gả công chúa cho châu mục trở thành lệ thường của nhà Lý”[3].
 Dưới thời Trần, thế lực của các Quằng vẫn được giữ vững. Ngoài việc Trần Thái Tông (Trần Cảnh) đem gả toàn bộ các cung nhân và con gái tôn thất nhà Lý cho Tù trưởng các khe động để phủ dụ, thu phục, chính sách đối với khu vực miền núi đã có những chuyển động khác biệt. Lệ gả công chúa cho các Châu mục được bãi bỏ, thay vào đấy là việc cử những người am hiểu phong tục các dân tộc đến cai trị các địa phương vùng núi hay nơi biên cảnh song song với việc phong tước trao quyền cho các thủ lĩnh.
Nhiều người trong hoàng tộc hoặc quan lại đã hoàn thành xuất sắc trọng trách triều đình giao phó. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật tinh thông nhiều tiếng địa phương được dân chúng vùng Đà Giang, Tuyên Hóa kính trọng. Trần Khánh Dư thì giữ yên một vùng biển đảo Yên Quảng. Thiều Thốn, Nguyễn Công Ngân vỗ về dân chúng một dải biên cương Đoàn Thành – Thất Nguyên (Lạng Sơn).
Dưới thời Lê, triều đình vẫn tiếp tục tuân thủ những quy củ có từ các triều đại trước đối với các dân tộc thiểu số. Các chức Đoàn luyện, Thủ ngựu, Tri châu, Đại tri châu được đặt ra để bổ dụng các Tù trưởng, dành cho họ nhiều quyền hạn rộng lớn, để họ toàn quyền cai quản địa phương tuân theo tập quán pháp. Đối với các vùng biên ải, nhà nước ngày càng quản lý chặt chẽ hơn. Ngoài việc các Thổ tù nhận được sắc phong của triều đình, nhiều quan lại là người Kinh được cử lên trấn giữ miền núi. Không ít người ở vùng xuôi đã nối đời cai trị tại địa phương, trở thành phiên thần của triều đình.
Đến cuối thời Lê, nhìn chung chính sách của nhà nước đối với vùng núi và các dân tộc thiểu số không có nhiều xáo trộn. Triều đình tiếp tục ban chức tước cho các tù trưởng địa phương như Tri châu, Cai châu, Đồng tri châu, Tuyên úy sứ, Chiêu thảo sứ, Phòng ngự sứ. Nhân dân gọi chung những người được hưởng các chức tước kể trên là Phụ đạo.
Chính sách dân tộc dưới thời Nguyễn có bước biến chuyển quan trọng. Ngay sau khi lên ngôi, tháng 8-1802 Gia Long đã cho phép các phủ, huyện, châu ở Tuyên Quang (gồm cả Hà Giang sau này), Quảng Yên, Thái Nguyên (gồm cả Bắc Cạn sau này), Hưng Hóa (sau chia thành Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái và một phần Phú Thọ), Lạng Sơn, Cao Bằng và Thanh, Nghệ được phép lấy người dân tộc thiểu số làm Thổ quan, Quản lĩnh. Về phép tuyển lính, các trấn kể trên cứ 10 đinh lấy 1, đặt làm các Thổ binh, cho các Thổ mục cai quản. Đến tháng 10 năm ấy, nhà vua lại ra chỉ dụ ban quan tước cho các Thổ tù ở Bắc Hà (các phiên thần ở Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên là Nông Phúc Liêm, Ma Thế Cố cho làm Tuyên úy đại sứ); Ma Sĩ Trạch, Nguyễn Quảng Chiến, Nguyễn Khắc Trương, Ma Thế Nhị, Đinh Công Vương, Đinh Công Trinh cho làm Tuyên úy sứ; Đinh Công Kiên cho làm Chiêu thảo sứ; Phan Bá Phụng làm Khâm sai các đội; Cầm Nhân Nguyên làm Phòng ngự đồng tri; Lê Kim Công làm Phòng ngự thiêm sư. Mấy tháng sau (12-1802) khi phiên thần các trấn Tuyên Quang, Sơn Tây, Thái Nguyên, Cao Bằng như Đinh Công Thể, Ma Thế Cố vào bái yết ở hành tại, Gia Long còn cho các đình thần bàn luận để ban quan tước cho họ theo các thứ bậc khác nhau.
Cuối năm 1804, Gia Long chuẩn y lời tâu của quan Bắc Thành, cho Nguyễn Hựu Trấn làm Cai đội, Trần Đăng Viên làm Bình luận ở châu Vị Xuyên vì đây là khu vực trọng yếu nơi biên cương; cho họ đem thủ hạ lập làm 2 đội Am Sơn để đóng giữ đất ấy. Nhà vua còn sai Thổ mục sở tại ghi chép về những người còn bị bỏ sót thuộc hai châu Đại Man (nay là Chiêm Hóa) và Bảo Lạc (nay thuộc Cao Bằng).
Tháng 5-1810, triều đình cho kê khai danh sách các Phiên thần, Phụ đạo ở Tuyên Quang và 5 ngoại trấn thuộc Bắc Thành để nhà nước xem xét lại việc cấp chỉ và bằng cũng như việc cho cai quản Thổ binh.
Tháng 3-1811, chiểu theo nguyện vọng của dân chúng sở tại, triều đình cho Chánh thuộc Hùng nhất Ma Doãn Điền lãnh chức Châu trưởng châu Đại Man. Để đề phòng Thổ mục châu Vị Xuyên là Nguyễn Thế Niệm có thể khởi loạn, ngoài việc sai trấn thần chia dân số 3 tổng Tiên Yên, Mục Hà, Lâm Đường và 2 xã Tụ Long, Phấn Võ làm 7 thuộc, chọn 7 người giỏi làm Cai thuộc, triều đình còn cử Ma Doãn Điền về cai quản thêm các Cai thuộc của châu Vị Xuyên.
Tháng 11-1821, dưới thời Minh Mệnh, viên Tuyên úy đồng tri trấn Tuyên Quang là Nguyễn Thế Nga cùng nhiều Thổ tù các châu dọc biên giới Bắc thành vào Huế chầu lạy, được nhà vua ban cấp triều phục, y phục hoặc bạc tiền theo thứ bậc khác nhau. Tại Kinh thành, các Thổ tù được sai vẽ đồ bản cương giới và kê sơ thế hệ truyền nối để tâu lên nhà vua. Các Thổ ty của trấn Tuyên Quang là Nguyễn Quảng Khải, Nông Văn Vân được bổ làm Thổ tri châu và Thổ tri huyện, trật Chánh cửu phẩm và Thổ lại mục, cho cai quản dân trong vùng để nộp thuế cho nhà nước. Để từng bước xóa bỏ chế độ Thổ quan nhằm thực thi chính sách người Kinh và người Thổ cùng cai trị vùng núi, Minh Mệnh đã nghị chuẩn việc cho tạm đặt ra các chức vụ mới như: Cai châu, Phó châu và Lại mục chuyên quản các châu ở nơi biên trấn. Những chức này, triều đình cho phép các quan đứng đầu trấn chọn người có năng lực ở địa phương làm. Đến năm 1827, Minh Mệnh xóa bỏ các chức quan: Tuyên úy đại sứ, Tuyên úy sứ, Chiêu thảo sứ, Phòng ngự đồng tri, Phòng ngự thiêm sự… trao cho các Thổ tù cai trị ở miền núi được đặt ra từ đầu thời Nguyễn thay bằng các chức Tri phủ, Tri huyện, Huyện thừa như ở vùng người Kinh, nhưng các viên quan này đều do người địa phương phụ trách có thêm chữ Thổ đằng trước (Thổ tri phủ thì bậc tòng Lục phẩm; Thổ tri huyện thì bậc tòng Thất phẩm; Thổ huyện thừa thì bậc tòng Bát phẩm; Thổ lại mục thì bậc tòng Cửu phẩm).
Năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), nhằm hạn chế bớt quyền lực của các Thổ tù, tên gọi các chức quan được chuẩn đinh lại như Thổ tri phủ đổi làm Thổ tri châu bậc tòng Thất phẩm; Thổ cai châu đổi làm Thổ tri châu bậc tòng Thất phẩm; Thổ cai huyện đổi làm Thổ tri huyện bậc tòng Thất phẩm; Cai châu (chưa vào ngạch) đổi làm Thổ lại mục bậc tòng Thất phẩm; Phó châu (chưa vào ngạch) đổi làm Thổ lại mục bậc tòng Cửu phẩm.
Tháng 7-1829 nhân việc khuyết Thổ tri châu ở Hàm Yên và Thổ ty các châu Lục Yên, Thu Châu, Đại Man, Vị xuyên, Bảo Lạc già yếu xin cho thế tập, Minh Mệnh cho bãi bỏ lệ Thổ ty thế tập ở Bắc Thành. Kể từ đây, các châu, huyện thuộc các trấn Tuyên Quan, Thái Nguyên, Quảng Uyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa tùy theo công việc ít nhiều, dân số đông thưa mà đặt ra Thổ tri châu, Tri huyện, Huyện thừa, Lại mục trong số những người thanh liêm, tài năng, cần cán, được dân tin phục, không cứ là Thổ ty, Hào mục.
Theo quy định, cứ số đinh từ 5000 người, số ruộng từ 500 mẫu trở lên thì ở châu đặt 1 Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ tri huyện cùng Thổ lại mục; cứ số đinh 100 người, số ruộng 100 mẫu trở lên thì châu đặt 1 Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ huyện thừa; đinh điền không đủ 100 chỉ đặt 1 Thổ lại mục theo đúng chỉ dụ của Minh Mệnh:
“Các châu huyện thuộc trấn Tuyên Quang, Thái Nguyên, Quảng Yên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa trong thành hạt, theo công việc nhiều hay ít, dân số đông thưa, nên đặt Thổ tri châu, Tri huyện, Huyện thừa, Lại mục thì nghĩ định rõ ràng; không cứ Thổ ty, Hào mục, cứ trong hạt ai là thanh liêm, tài năng cần cán vốn e dân tin phục thì chọn cử tâu lên không được theo trước xung là tập quản”[4]. Mãi tới đầu năm 1831, Minh Mệnh mới giải thích rõ thực chất của việc bãi bỏ chế độ Thổ ty thế tập ở các trấn biên giới như sau: “Vì lệ thế tập đời xưa, là để đền công. Nhưng con cháu công thần, nếu có người hư hỏng triều đình phải truất bãi thì lại thương tổn đến ân điển. Ví như nhà Hán phong các tước hầu chỉ núi vạch sông mà thề nhưng mới một vài đời chỉ còn có ban, bốn người thì sách thề cũng chỉ là hão? Chẳng gì bằng luận công phong tước cho công thần ấy, còn con cháu thì tùy tài trao chức, thế là giữ cho trọn vẹn, cứ gì phải thế tập mới là đền công”[5]. Có thể gọi đây là cuộc cải cách lớn chia đặt các đơn vị hành chính ở địa phương trong phạm vi cả nước. Minh Mệnh coi cuộc cải cách này là một phen quy hoạch lớn lao khiến cho nước nhà có phên dậu giữ gìn, yên như thái sơn bàn thạch.
Cũng từ năm 1831, để tập trung nhiều hành vào tay triều đình, Minh Mệnh chia cả nước làm 29 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên; tất cả đều trực thuộc chính quyền trung ương. Các tỉnh do Tổng đốc đứng đầu, có Tuần phủ, Bố tránh, Án sát giúp việc.
Các đơn vị hành chính dưới là phủ, huyện (ở miền núi là châu), tổng, xã. Đứng đầu phủ là Tri phủ, đầu huyện là Tri huyện, đầu tổng là Chánh tổng, đầy xã là Lý trưởng. Đối với các châu ở miền núi, Tri châu thường được chọn lựa trong các Tù trưởng, Thổ tù, Lang đạo. Ở miền thượng du, tình hình chính trị thường không ổn định, nên các vua nhà Nguyễn đặt một chế độ kèm cặp và kiểm soát các quan chức người địa phương, trao cho các quan lại người Kinh từ trung ương cử về thực hiện, có nhiệm vụ chủ yếu là đốc xuất việc thu thuế, do thám và đàn áp các âm mưu phản loạn. Một số tù trưởng trung thành và tin cậy ở các địa phương xa xôi và hiểm yếu được triều đình dựa vào và trao cho quyền hạn đặc biệt, phong làm phòng ngự sử. Bên cạnh phòng ngự sử thì thường đặt một viên quan người Kinh gọi là Chiêu thảo sứ hoặc Phủ Man sứ. Các quan chức này gọi là lưu quan.
Chính sách lưu quan được Minh Mệnh mô phỏng từ chính sách thời Ung Chính 91723-1735) – triều Thanh Thế Tông theo đề xuất của Tổng đốc Vân – Quý Ngạc Nhĩ Thái và đem áp dụng lần đầu tại vùng dân tộc Miêu thuộc Vân Nam và Quý Châu (Trung Quốc).
Minh Mệnh cho rằng chính sách này, “quyền hành nặng, nhẹ kiềm chế lẫn nhau, chức tước lớn, nhỏ ràng buộc lấy nhau, thực là một chính sách hay trong việc giữ nước trị dân. Nếu mô phỏng mà làm có lợi nhiều lắm”.
Để ngăn chặn và hạn chế sự chống đối của lực lượng Thổ quan, Minh Mệnh dụ vỗ về: “Các phủ, huyện, châu Thổ ở các tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, hiện có Thổ tri huyện, Thổ tri châu, Thổ huyện thừa, thì cho đều ở lại chức cũ, hợp lực theo quan do Chính phủ bổ đến (lưu quan) để làm việc”. Song song với những việc làm kể trên, Minh Mệnh còn cho đổi toàn bộ các mường, động thành xã để thống nhất đơn vị hành chính cấp cơ sở trên toàn quốc. Ngoài ra lại đặt những đơn vị hành chính giữa các xã và huyện châu đó là tổng giống như các tỉnh miền xuôi. Thông qua chế độ lưu quan, nhà Nguyễn đã trực tiếp với tay xuống tận các châu huyện miền núi biên giới phía Bắc trực tiếp quản đất, thu tô thuế và bắt lính, lao dịch.
Tháng 4-1835, triều đình bắt đầu cho thực thi đặt chức lưu quan ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vì Minh Mệnh cho rằng những nơi này nhiều năm không yên đều do Thổ huyện, Thổ châu lợi dụng địa thế xa vắng thường họp nhau nổi loạn. Đồng thời, triều đình cũng thuận cho việc đem chia huyện Vị Xuyên làm 2 huyện Vị Xuyên và Vĩnh Tuy với lý do núi khe hiểm trở, địa thế xa khơi. Chánh đội trưởng Ma Doãn Đô được thăng quyền lãnh Thổ tri huyện Vĩnh Điện; Ma Doãn Cang làm Bang biện huyện vụ; Hoàng Kim Quy, Mai Văn Đạo hiệp đồng cai quản công việc ở đồn An Châu.
Tháng 4-1836, thổ ty các tỉnh Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên được vào chầu ở Huế nhân dịp khánh tiết dự lĩnh ban ơn. Thổ tri phủ Nguyễn Văn Biểu, Suất đội cơ Thái Hùng Nông Văn Văn và 8 người khác được ở lại kinh làm việc. Lại cho tỉnh Tuyên Quang chọn 1-2 người Thổ và 5-6 con em sĩ dân cho đi học chữ và tiếng nói để về dạy cho dân Để Định, Vĩnh Điện ven biên giới. Ngoài ra triều đình còn cho Lễ khoa cấp sự trung Hà Thúc Chương đến An Lạc, Ngọc Mạo để xét hỏi sự trạng. Sau khi khảo sát, Hà Thúc Chương dâng sớ lên triều đình xin đặt mỗi trạm 1 người Kinh biết chữ và được cấp lương để trừ tệ quan quân đi lại sách nhiễu còn đối với việc tuyển người vào các chức vụ ở phủ huyện thì phải hết sức cẩn thận vì ở Tuyên Quang chỉ có Tri phủ Yên Ninh là Phạm Dược phần nào còn biết chính thể trị dân, dân sợ mà mến; Nguyễn Đăng Tuyển ở Vị Xuyên, Kiểu Năng Thân ở Vĩnh Tuy thì dung túng thuộc hạ sách nhiễu; tỉnh phải giảm việc sung quân và đày lính đến Vĩnh Điện, Để Định; miễn cho việc thu thuế bỏ thiếu; cho người địa phương vào ngạch thổ dõng mà không tuyển vào biền binh; thưởng hậu cho người bắt được giặc dã. Triều đình phải chú trọng kén người trung hậu, hiểu việc quân như Nguyễn Khắc Khoan, Mai Văn Đạo và đừng coi thường vì họ là người Thổ; đặt thêm lính ở phủ, chứa đủ lương thực, đóng quân ở đồn Vân Trung để khống chế đường quan yếu đến An Lạc, Ngọc Mạo.
Nói về vị trí chiến lược và tầm quan trọng của vùng đất Hà Giang, ngay sau cuộc tiến quân lần thứ nhất đánh dẹp Nông Văn Vân tại châu Bảo Lạc vào cuối năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), trên đường về, Nguyễn Công Trứ dã dâng tập “Thỉnh an” lên vua, trình bày vị trí chiến lược của vùng đất An Biên, Hà Giang, xin đặt tỉnh thành tại đây, để chế ngự vùng thượng du miền Bắc.
“Thỉnh an” tuy có nghĩa là hỏi sức khỏe vua, nhưng thực chất là bản báo cáo hàng tháng, do các Tổng đốc dâng lên triều đình. Mở đầu “Thỉnh an” tác giả trình bày yếu tố về địa lý, từ thành Tuyên Quang men theo dòng sông Lô đến đồn An Biên đối ngạn với Hà Giang (tương đương với đoạn quốc lộ số 2 ngày nay, từ tỉnh lỵ Tuyên Quang đến tỉnh lỵ Hà Giang) phải mất 8 ngày đường; từ đó tiến đến châu Bảo Lạc (tương đương với đường 34 ngày nay, từ tỉnh lỵ Hà Giang đến huyện lỵ Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng), sào huyệt của Nông Văn Vân, lại phải mất thêm 8 ngày; đó là chỉ kể đường đi, không phải đánh nhau, cũng phải mất đến nửa tháng:
“Thự Tổng đốc Hải Yên là Nguyễn Công Trứ có nói trong tập thỉnh an rằng: “Tỉnh Tuyên Quang tiếp giáp với huyện Hùng Quan thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Sơn Tây. Từ tỉnh đến đồn An Biên hết 8 ngày đường; từ đồn An Biên do đường An Định, Bắc Nhự đến Vân Trung (Bảo Lạc) thì hết 5 ngày; nếu do đường Đại Miện, Tiểu Miện đi Vân Trung thì hết 8 ngày. Tính suốt ra, từ tỉnh thành (Tuyên Quang) đến châu Bảo Lạc, đi được yên lành cũng đã hơn nửa tháng”[6].
Với đường giao thông xa xôi khó khăn như vậy, mọi sự tiếp tế lương thực, tiếp viện quân lính, lại chỉ dựa vào tỉnh Sơn Tây tại cuối dòng sông Lô; nên trong quá khứ gặp nhiều sự trở ngại, như đồn An Biên tại Hà Giang mấy lần bị mất không kịp cứu, vùng châu Bảo Lạc Nông Văn Vân nổi dậy, không dập tắt được kịp thời:
“Núi sông hiểm trở, đều thuộc đất của Thổ ty, khi có việc xẩy ra, chờ được tin báo thường quá chậm không kịp việc. Phương chi những việc quan trọng đều do tỉnh Sơn Tây điều khiển, sự đi lại và điều động phải hàng tuần hàng tháng mới xong. Công việc có khi bị trở ngại và lầm lỡ cũng do vì tình thế cách trở xui nên thế”[7].
Đích thân hành quân qua vùng An Biên, Hà Giang; thự Tổng đốc Hải Yên Nguyễn Công Trứ nhận định rằng đất này có vị trí chiến lược đủ để khống chế các vùng xung quanh; lại có khả năng tự túc, tự cường lập tỉnh thành lớn.
Riêng về mặt địa hình quân sự, ông nhận định rằng vị trí An Biên rộng rãi, trước có sông Lô ngăn chặn, ba mặt núi đá ôm quanh; các phía phải, trái, núi hiểm có thể làm quan ải chặn giữ. Về an ninh xa có các sông Đại Miện, Tiểu Miện; hoặc các vùng An Định, Bách Đích có thể xây đồn để chặn giữ:
“An Biên là nơi trung độ nhất của Tuyên Quang, mặt trước có dòng sông ngăn chặn, ba mặt có núi đá ôm quanh, quãng giữa rộng rãi, chứa được vài vạn người, có thể lập tỉnh thành. Tòng Tạo bên hữu, Lạp Lĩnh ở bên tả có thể xây dựng quan ải, phía nam con sông có núi đất, xây pháo đài để phòng thủ được nghiêm. Như thế tự thành một nơi hiểm trở có thể ở được. Ngoài ra các nơi xung yếu như Đại Miện, Tiểu Miện, mỏ son Bách Đích và An Định đều đắp đồn để ngăn chặn; những chỗ bị nghẽn lấp quanh co, chật hẹp thì cho khai đào, sửa phẳng để dễ đi lại”[8].
Từ vị trí chiến lược này, giống như cái trục của cỗ xe, có thể lần theo nan quạt, tỏa ra bốn phương; hoặc theo đường 34 hiện nay để đến các châu Mèo Vạc, Bảo Lạc; hoặc theo sông Gâm, sông Năng đến hồ Ba Bể (Bắc Cạn) thuộc vùng đất tỉnh Thái Nguyên thời đó; hoặc xuôi dòng sông Lô qua tỉnh lỵ Tuyên Quang ngày nay để đến tỉnh thành Hưng Hóa, hoặc ngược sông Lô đến châu Vị Xuyên để kiểm soát vùng mỏ Tự Long (vùng này sau Hiệp ước Thiên Thân 1885 nằm trong bản đồ Trung Quốc).
“Như vậy thì mặt tây có thể chống giữ Bảo Lạc, Lục Yên, mặt đông có thể trấn áp Đại Man, Vị Xuyên, mặt nam có thể khống chế Hưng Hóa, mặt bắc có thể thông với Thái Nguyên; thực được cái thế ở chỗ trọng mà trị chỗ khinh, chẳng khác gì thân người sai khiến chân tay vậy. Vận động đã nhanh, tin tức lại nhậy, có thể ngăn chặn được cái chưa nảy mầm, tiêu trừ những cái không yên tĩnh”[9].
Điều quan trọng là vùng đất chiến lược này có thể tự túc, tự cường; Nguyễn Công Trứ ước tính cần bỏ ra 3 năm cải tạo, đưa dân vào khuôn phép, để về lâu về dài không còn mối lo biên giới:
“Rồi thay đặt những kẻ đầu trưởng để cai trị vỗ về dân, khiến chúng noi khuôn theo phép, tai thấm, mắt nhuần, thì không quá 3 năm có thể biến đổi thói man thành phong tục người kinh, lâu dài tuyệt được mối lo biên giới”.
Về lực lượng quân sự, thì ngoài số quân hiện hữu, cho mộ thêm 2 cơ binh địa phương, khuyến khích ban chức tước để khích lệ người chiêu mộ:
“Hơn nữa, trước giờ, số biền binh thuộc tỉnh được phái đi nã giặc đến gần một nửa, số hiện còn tại ngũ, sợ điều khiển không đủ. Nhưng thổ mục trong tỉnh và những thủ hạ của thần, gặp khi có việc quân, kể cũng đắc lực. Nay cho xin mộ người lập làm 2 cơ binh, mỗi cơ 600 người. Kẻ nào mộ được 69 người, thì cho làm suất đội, kẻ nào mộ được 10 đội cho làm quản cơ. Số lính mộ trong đám lậu đinh này không những có thể dùng để sai phái, mà những kẻ không có căn cước ghi trong sổ sách cũng được quản thúc. Như vậy cũng là một cách tăng thêm quân và dẹp yên giặc”.
Về mặt kinh tế, Nguyễn Công Trứ thấy được tiềm năng nông nghiệp của vùng châu thổ sông Lô quanh Hà Giang. Là chuyên viên về dinh điền, ông đề nghị chỉ cần tiếp tế 6 tháng lương thực để giúp cho dân khẩn hoang, sau đó có thể tự cung cấp được:
“Nói về nhu phí: Hạt này đất màu mỡ; núi, chỗ nào cũng gieo trồng được. Vừa rồi những chỗ thần đi qua thấy thóc lóa để lộ trong rừng, trong gò. Hơn 4000 binh dõng đi trận chuyến này, suốt từ tháng 10 đến tháng chạp, mà một xã Vân Quang cung cấp không thiếu thốn, thì đủ biết những nơi khác. Xét ra, ruộng ở đây không có sổ điền và cũng không nạp thuế. Những đất có thể gieo trồng được còn bỏ hoang rất nhiều. Vậy thì chỉ phải chuyển vận lương thực một lần đủ dùng nửa năm. Sau này, chiêu mộ những dân xiêu tán ở các xã khai khẩn, rồi chiếu những đất thực đã trồng cấy được, châm chước thu thuế, chứa lại để chi dùng, có thể đầy đủ, không sợ thiếu thốn”.
Về công cuộc khai mỏ, thế mạnh của vùng thượng du miền Bắc, ông chủ trương nên kiểm soát chặt chẽ, không cho người Thanh thao túng; làm được như vậy sẽ giúp cho ngân quỹ dồi dào và an ninh được củng cố:
“Lại nữa, các sở mỏ vàng, mỗi năm nộp thuế từ 1 đến 4 lạng, mỗi lạng tính ra 80 quan tiền. Những người Thanh làm mỏ, mỗi nơi tụ tập để kiếm ăn trên dưới 700, 800 người, đều là những kẻ du đãng trốn tránh. Chúng đào xẻ mạch đất, quấy nhiễu dân địa phương, thường gây ra xích mích. Ngày nọ, giặc Vân đi đến đâu, chém giết bừa bãi đến đấy, đều do bọn này hùa đảng, giúp nó làm bậy cả. Số thuế vàng thu nhập ấy, có hay không, đều không đáng kể. Nay xin tạm bắt các mỏ vàng đóng cửa. Đuổi hết về nước những người Thanh tụ tập kiếm ăn tại đây. Sau này, có ai xin trưng, cứ quan địa phương xét thực, sẽ chiếu theo cái lệ “Hộ làm vàng” ở Quảng Nam mà đánh thuế. Rồi thường cho kiểm soát, không để chúng tự giấu bớt như trước. Như vậy, đã dứt được cái lo bất ngờ, mà lại làm dồi dào thêm việc tiêu dùng của nhà nước”.
Nhắm phản bác luận điệu chống đối việc dời tỉnh thành (từ tỉnh lỵ Tuyên Quang đến tỉnh lỵ Hà Giang hiện nay) vì cho rằng nước độc; Nguyễn Công Trứ nêu bằng chứng tại phố chợ tại Hà Giang người Kinh, người Thanh buôn bán sầm uất. Lại theo niềm tin lúc bấy giờ cho rằng nơi nào nước nặng là độc, nước nhẹ là lành; ông cất công cân thử nước sông Lô tại hai vùng, thì thấy không xê dịch mấy, nên kết luận rằng thực chất những lời phản đối chỉ vì ngại đường xa đó thôi:
“Có điều là dời đổi tỉnh thành là việc người ta lấy làm ngại, có hai cớ: Một là ở An Biên lam chướng nặng; hai là đường vận chuyển lương thực khó khăn. Thần đã hai ba lần trù tính: An Biên đối ngạn với Hà Giang, ở đây chợ phố liên tiếp, người Kinh, người Thanh ở lẫn với nhau được phồn thịnh. Vả lại, từ An Biên đến Tuyên Quang cùng ăn một con sông, đã cho cân nghiệm thì nước hai nơi không nặng nhẹ hơn bao nhiêu. Nay cho lam chướng, chẳng qua người ta thích gần, ngại xa đó thôi”[10].
Bản “Thỉnh an” của Nguyễn Công Trứ đưa lên, vua Minh Mệnh cho là có lý, tuy nhiên “Hãy chờ sau này biên giới yên tĩnh, sẽ bàn chưa muộn[11], nhưng rồi bỏ qua; đó là một điều đáng tiếc. Giả sử lúc bấy giờ (1833) tỉnh thành Hà Giang được thiết lập; có một lực lượng quân sự đủ mạnh để chế ngự vùng thượng dụ và trung du Bắc Kỳ, thì những vụ nổi loạn liên miên của giặc Khách (Tàu) dưới thời Tự Đức được đàn áp kịp thời, đất nước không lâm vào cảnh kiệt quệ. Tuy nhiên giá trị chiến lược của Hà Giang không vì thế mà mai một, sau khi chiếm Việt Nam, thực dân Pháp thấy được sự cần thiết, đã cho lập tỉnh vào đầu thế kỷ 20 (1900), rồi vị thế tỉnh Hà Giang tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay[12].
Sau một số năm thực thi trên đất Tuyên Quang – Hà Giang chế độ lưu quan bắt đầu tỏ rõ sự bất cập và bất lực, điều này thể hiện rõ trong những lời tâu bầy của Nguy Khắc Tuần, Bùi Duy Kỳ, Nguyễn Đăng Giai và Phạm Phủ Thứ.
Tháng 6-1851, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên là Ngụy Khắc Tuần kêu xin với triều đình 3 việc – trong đó có 2 việc liên quan:
“- Các tổng thuộc hạt ấy hiện đã đặt mỗi tổng 1 Cai tổng, nay xin đặt thêm một Phó tổng, phàm các công việc binh, lương ở trong tổng, do Cai tổng chuyên làm, duy việc xét bắt kẻ gian phi, phòng xét bọn trộm cướp thì do Phó tổng chuyên làm, để có chuyên trách.
– Các huyện, châu đòi đặt lưu quan, chi đến trú ngụ ở ngoài thành, các việc kiện tụng giấy tờ thuế khóa, thường do Tổng Lý làm thay, chỉ có tiếng mà không có sự thực. Nay xin vẫn đặt Thổ quan như trước, để bớt việc, tiền cho dân”[13].
Tự Đức đã giao cho các Bộ bàn bạc để tìm giải pháp. Cuối cùng các Bộ đều đồng tình với đề nghị trên, nhà vua cũng duyệt y nhưng đáng tiếc sự việc chỉ dừng lại ở đấy mà không được thi hành.
Tháng 9-1851, Kinh lược sứ Nguyễn Đăng Giai tâu bầy kế hoạch về biên giới, trong đó đề cập tới vấn đề lưu quan như sau:
“Thổ quan các tỉnh ven biên giới là phên che cho trung châu. Trước đây nhân giặc Vân sinh việc đổi đặt lưu quan, cũng là một việc sửa sang đại đoạn của đại thánh nhân. Nhưng xem ra, giặc Vân nổi loạn, chỉ vài tháng tự có thể dẹp yên, thực vì sào huyệt của giặc có thể trừ bỏ được, mà đất ta, dân ta, hô cũng nhanh, thì mối lo còn ít. Từ khi thi hành phép đặt lưu quan, Thổ ty, Thổ mục nhất khái bỏ đi hết thì quân với dân tiếng nói không giống nhau, phong thổ khác hẳn. Lúc ngày thường thì cho người Mán là dễ nói dối, mượn quân pháp để dọa nạt, tham nhũng tàn khắc, không cái gì là không làm. Thổ dân ở đấy lấy làm giận mà không dám nói ra. Tới khi có việc hô ứng không linh động, làm việc gì là bị ngăn trở, thổ dân vẫn mang lòng giận ghét, ai chịu có lòng thân với người trên, chết vì người trưởng. Thế thì cái tệ lưu quan gấp hai thổ quan, không biết đến thế nào. Xin lượng đặt Thổ quan để trông coi đốc suất dân họ, đoàn kết dân Thổ, bắt phải ngăn chống giặc, mới là mưu chước quân khẩn để yên nơi biên giới.
Lại tỉnh Hưng Hóa, Thái Nguyên, Tuyên Quang đều là nơi địa đầu tiếp giáp, không khỏi bị quân giặc ấy nhân khi sơ hở lại đến cướp bóc. Xin sắc xuống cho các tỉnh ấy dự trước sức giục bọn Thổ mục, Thổ hào cũ đều tự cai quản đốc suất dân họ cùng đoàn kết với nhau, sai ngăn ngừa trước khi có việc, cho yên nơi biên giới. Sau khi việc đã yên rồi, chọn người nào giỏi hơn bổ cho làm thổ huyện úy, hoặc làm thổ huyện thừa; người nào giỏi vừa, bổ cho chức thiên hộ bá hộ, làm việc gọi lính nộp thế, mới là mưu chước yên rỗi lâu dài”[14].
Vua chuẩn cho giao xuống bộ Binh xét. Sau khi lắng nghe, Tự Đức lại cho rằng, lưu quan đặt ra là vốn muốn đổi Thổ quan quy về lưu quan. Duy 2 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng gần đây có việc ở nơi biên giới, cần khiến cho đoàn kết khi việc yên, trao chức cho, cũng là việc làm theo thời nghi. Còn các tỉnh khác cũng bất tất vội sinh sự đoàn kết làm gì.
Tháng 7-1854, Án sát Tuyên Quang là Bùi Duy Kỳ vào Huế được nhà vua vời vào cung để tham vấn sự tình, nhất là những chính sách đối với người dân các tỉnh nơi biên viễn. Bùi Duy Kỳ tâu:
“Thần xét trong tỉnh hạt, dân Mán, Mèo ở xen lẫn nhau, kỹ nghệ về võ, dân nào cũng đều có người giỏi. Nghĩ xin sức xuống Thổ mục, Thổ hào, Man trưởng, Bang trưởng, đều cho phép chúng được mộ dân làm hương binh. Người nào mộ được 50 tên, bổ thụ cho chức Cai đội, được 500 tên, bổ thụ cho chức Quản cơ, cùng trông coi thống thuộc nhau. Khi vô sự thì cùng nhau yên nghiệp cày cấy, hữu sự thì bắt họp lại hết cả, tính ngày cấp lương, cho đi bắt giặc, thì nơi biên giới có thể vô sự được”. Vua cho là lời tâu ấy có thể dùng được, sai thể theo thế mà thi hành cho khéo[15].
Kỳ lại nói: “Địa hạt tỉnh ấy ở miền thượng du, lúc quốc sơ, phủ, huyện, châu đều dùng Thổ quan; khoảng năm Minh Mệnh đổi lại, đặt ngạch lưu quan. Nhưng vì đất hạt ấy ở nơi biên giới xa, khí độc nặng quá, các viên phủ huyện, vừa mới đến chỗ lỵ sở, liền bị ốm đau, rồi lập tức về tỉh thành điều dưỡng. Thế là có cái danh lưu quan mà không có sự thực lưu quan, muốn cho dân Man Thổ được tập nhiễm dần phong tục dân Kinh, cũng ít lắm! Thần nghĩ: Nên lại đặt thêm 1 viên Thổ huyện thừa, khiến cho thay đi đổi lại, cùng ràng giữ nhau. Dân cư mỗi ngày một đông, thì thủy thổ mỗi ngày lành, sẽ lại chỉ đặt một chức lưu quan thôi thì cũng tiện”[16].
Những đề xuất của Bùi Duy Kỳ tuy được các tỉnh thần các tỉnh biên giới đem ra hội bàn, nhưng đa số vẫn dựa dẫm vào ý chỉ nhà vua nên cuối cùng thống nhất cho rằng: “Từ khi đặt lưu quan đến nay, mỗi khi ở chỗ nào thủy thổ hơi lành, lưu quan ở đó không nhiễm bệnh gì, mà nhân dân cũng đã tập quen, dần nhiễm được phong tục người Kinh. Nay đặt thêm Thổ huyện thừa thì không tiện”[17].
Nghe quần thần tâu bầy, Tự Đức lại quyết cứ giữ chế độ lưu quan.
Tháng 9-1866 trong lời tâu kín về triều đình, Phạm Phú Thứ “lại xin đặt Thổ tù được thế tập mà liệu đánh thuế, khiến cho con em cha anh cùng nhau chống giữ, không như người Kinh chẳng biết tình thế thì đến lúc đó có việc mới mong được việc”[18].
Bao nhiêu lời tâu bầy hợp lẽ nhưng cuối cùng triều đình vẫn cứ cứng nhắc, chẳng hề cải cách và nghe theo.
Việc thi hành chế độ lưu quan của nhà Nguyễn phần nào chứng tỏ sức mạnh của nhà nước đã lan tới các vùng biên viễn, dẹp bỏ được tình trạng cát cứ của không ít Thổ tù, Thủ lĩnh người dân tộc. Tuy nhiên, chính sách này ngay từ đầu đã tỏ ra không phù hợp với phương thức quản lý xã hội cổ truyền của đồng bào các dân tộc, đụng chạm nảy lửa đối với các tập quán pháp khiến cho mâu thuẫn giữa địa phương và nhà nước trung ương ngày một gia tăng.
1.2. Chế độ Quằng và những hệ quả xã hội
Trong khảo luận Văn hóa Việt Nam đa tộc người, Đặng Nghiêm Vạn cho rằng:
Trước đời Lê, các chúa đất miền núi phía bắc đã thiết lập những nhà nước với cấp độ hành chính bậc 3, thậm chí bậc 4, lệ thuộc theo hình thức ki-mi vào triều đình Việt Nam một cách lỏng lẻo, bằng những cuộc thăm viếng, bằng cống nạp, qua quan hệ hôn nhân, nhận chức tước… Đến thời Lê, bộ máy cai trị truyền thống của các “nhà nước” đó được chồng lên trên bởi hệ thống hành chính thống nhất cả nước, nhưng trên thực tế hai chính quyền đó tuy là một nhưng vẫn là hai. Chế độ Thổ quan được thực hiện, chấp nhận sự tồn tại các đơn vị hàng châu, hàng tổng tương ứng với mường lớn, hàng xã với mường nhỏ, bổ nhiệm các Tù trưởng địa phương làm quan chức triều đình, làm bồi thần cai trị thần dân. Tiến lên một bước, triều đình thực hiện chế độ lưu quan. Theo chế độ này, các quan lại người Việt được phái lên cha truyền con nối làm chúa đất một vùng, dưới danh nghĩa một quan chức của triều đình. Họ dần dần bị bản địa hóa, trở thành người địa phương cùng với các tù trưởng gốc bản địa, cai trị dân một vùng. Đó là trường hợp của chế độ Quằng, đồng thời cũng còn là chế độ Thổ ty ở vùng Đông Bắc, vùng Tày – Nùng, chủ yếu ở vùng dọc biên giới và vùng hẻo lánh. Ở Tây Bắc, chế độ lưu quan chỉ thành công một phần ở vùng lưu vực sông Hồng với các chúa đất vùng Tày, còn thất bại ở vùng Mường và Thái. Các quan lại người Việt được cử không dám trực tiếp xuống nhiệm sở, chỉ luẩn quẩn ở trấn Hưng Hóa, thỉnh thoảng đi kinh lý, mặc nhiên chấp nhận sự tồn tại chế độ Lang đạo và Phìa tạo. Các chúa đất Thái và bộ máy cai trị truyền thống vẫn tồn tại cho đến khi Pháp sang và được người Pháp bổ nhiệm dưới danh nghĩa một viên chức chính quyền thực dân.
Khác với vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, ở miền núi phía bắc, các tổ chức xã hội cấp trên bản (làng) vẫn có điều kiện xuất hiện sớm một cách vững chắc, nhờ các bản được cố kết với nhau thành một mường nhỏ, các mường nhỏ thành mường lớn và… nhờ việc canh tác ruộng nước được liên kết với nhau bằng một hệ thống thủy lợi theo kiểu mương, phai, lái, lín. Những vùng lớn trong một khu vực; có lúc, có nơi lại chịu sự chỉ đạo của chúa đất một khu vực mà tiêu chuẩn là trung thành với triều đình, có uy tín và thế lực trong vùng, được triều đình tín nhiệm coi là bồi thần, tự cai quản, thu cống nạp, thực hiện binh dịch với triều đình khi cần thiết, giữ vững an ninh trong vùng như các tù trưởng họ Hà, họ Nông; họ Vi, họ Nguyễn, họ Giáp, họ Thân, họ Ma Doãn, họ Bế ở vùng Lao – Hà – Tuyên và Cao – Bắc – Lạng, họ Sa, họ Cầm, họ Đèo vùng Tây Bắc, họ Đinh, Quách, Bạch, Hà ở các mường lớn vùng Hòa Bình, họ Sầm vùng Nghệ An…
Chúa đất các mường lớn (mường hàng châu) thay mặt nhà vua nắm quyền các “nhà nước” nhỏ bé này, với bộ máy cai trị truyền thống của mình, được triều đình chấp nhận bằng cách thay đổi dần trong từng vùng cụ thể, hợp nhất trên hình thức vào hệ thống tổ chức chung của cả nước một cách hợp lý. Trên nguyên tắc ở mỗi mường lớn, tất cả đất đai, rừng núi, sông suối, ruộng rẫy và kể cả con người sinh sống trong các bản làng thuộc lãnh thổ của mường, là thuộc về cộng đồng, thuộc về mường. Nhưng chúa đất đã thành công trong việc nhất thể hóa bản thân mình với cộng đồng, đã đồng nhất số phận của bản thân với số phận toàn dân. “Mường là tạo, tạo là mường”; “có mường phải có tạo, có tạo mới có mường”. Sự đồng nhất hóa người đứng đầu cộng đồng với toàn thể cộng đồng đã ra đời từ thời xã hội bộ lạc, thời còn quan niệm “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Người tù trưởng là đại diện cho ý chí thống nhất của bộ lạc trong tất cả mọi việc từ sản xuất đến chiến đấu, từ việc thường ngày đến việc tín ngưỡng tôn giáo. Sự việc đó chỉ trở nên tệ hại khi người đại diện toàn dân đã lợi dụng các hình thức “công cộng”, tự tha hóa, trở thành người bóc lột đồng tộc, tự tách ra khỏi người đồng tộc”[19].
Cũng vẫn Đặng Nghiêm Vạn, tại luận văn Về vai trò của chúa đất trong xã hội tồn tại chế độ Thổ ty, Lang đạo, Phìa tạo xác nhận rằng, từ những năm cuối thế kỷ XIX trở về trước, những chế độ trên ở vùng núi phía bắc đã từng tồn tại song song với tổ chức chính quyền trung ương. Xem xét một cách kỹ lưỡng ta thấy hình như tác giả dùng khái niệm Thổ ty để chỉ chế độ Quằng trong thực thể xã hội người Tày – Nùng. Ở đây, chính tác giả đã chỉ ra rằng, trong những mức độ khác nhau, các chúa đất với những tên gọi khác nhau đã nắm giữ quyền hành điều phối công việc theo các thể chế cũ với một phạm vi nhất định, được triều đình phong kiến trung ương công nhận là bồi thần của mình và phong chức tước tương ứng lãnh thổ mà chúa đất đang cai quản. Quyền hạn và trách nhiệm của chúa đất và giai cấp thống trị ở địa phương được ghi lại trong tập quán pháp hoặc qua sách vở, truyền miệng.
Cách đây 80 năm, trên tờ Đông Pháp, các số ra từ ngày 7-1 đến 31-1-1934, Nguyễn Văn Huyên trong loạt bài viết về Những giống người và chế độ Thổ ty ở châu Chiêm Hóa đã cho biết sau khi đặt ra một loạt câu hỏi: “Xét nguồn gốc và định nghĩa Thổ ty: Thổ ty là gì? Thổ ty có từ bao giờ? Tác giả cho rằng, đó là câu hỏi ta cần phải giải đáp trước khi nói đến chế độ Thổ ty. Vì sách vở thiếu sót, lai lịch thất truyền nên xét nguồn gốc và định nghĩa Thổ ty là một sự rất khó hiểu. Nhưng xét trong quốc sử các tiên triều như Lý, Trần, Lê đều phong tước cho các Tù trưởng Thổ Mán trên thượng du.
Nguyên khi xưa người Thổ cũng là một giống người hay di cư, nên cũng họp thành bộ lạc. Một bộ lạc có nhiều họ (familla), mỗi họ có một người tộc trưởng (patriarche). Trong những người tộc trưởng lại bầu lên lấy một người bộ lạc trưởng (chef de tribe). Như vậy, một hạt thường có nhiều bộ lạc ở, nên phải có một người đứng đầu cả các bộ lạc ấy mà cai trị, nên chi người ta mới họp các Bộ lạc trưởng lại mà bầu lấy một người làm “chùm” trong xứ gọi là Tù trưởng.
Cái chế độ ấy cũng tương tự như chế độ Quan lang ở hạt Hòa Bình, mà vị Tù trưởng nói đây cũng như ông Chánh Quan lang vậy.
Các vị Tù trưởng ấy được quyền lập pháp, hành chính, tùy theo phong tục hạt mình mà cai trị, thật cũng như một nước con con có quyền tự trị (anlonomi) đặt dưới quyền kiểm sát của triều đình.
Cứ đem các điều thuộc về lịch sử để làm luận. Chúng ta có thể xét được nguồn gốc Thổ ty nhưng cứ theo ý kiến thông thường của Thổ dân ở đây thời các họ Thổ ty ở Chiêm Hóa là những họ vì có công tạo bản mà được nhà vua biệt đãi, dân gian tôn kính, mà đời đời lập tước làm quan đầu hạt chứ cũng không do ở những câu chuyện hoang đường như các họ làm quan lang hạt Hòa Bình.
Xem trong gia phả họ Ma Doãn thì đời Lê Thái Tổ (1428) ông Ma Doãn Thịnh vì có công giúp đánh giặc Minh, phục hưng đất nước, được dự hàng khai quốc công thần, phong làm Quý Lộc hầu, quản trị miền Chiêm Hóa. Suy lẽ đó, thời những ý kiến kể trên vị tất đã là không phải mà ta cũng có thể ức đoán được rằng, chế độ Thổ ty có ở Chiêm Hóa từ đời trung cổ.
Các tiền triều như nhà lê thì phong là Phụ đạo ty, về Hoàng triều Nguyễn thị thì đức Minh Mệnh phong là Phiên thần, mà hai chữ Thổ ty xuất hiện từ đời đức Dực tôn Hoàng đế vậy.
Kể tới nay đã hơn 500 năm, các người trong họ Thổ ty vẫn được mang ơn sâu ấy, giữ chính quyền trong hạt, phục tùng triều đình, theo chính thể toàn quốc, nhưng vẫn tùy theo phong tục tập quán bản hạt mà cai trị cho hợp với dân tình cho nên cũng có thể gọi là một chế độ được vậy.
Các họ Thổ ty ở Chiêm Hóa – Ở Chiêm Hóa hiện nay có 3 họ Thổ ty là:
a) Họ Nguyễn Quảng ở làng Côn Lôn, tổng Côn Lôn.
b) Họ Ngô Văn ở làng Vĩnh Yên, tổng Vĩnh Yên.
c) Họ Ma Doãn ở làng Khúc Phụ, tổng Thổ Bình.
Kể trong ba họ ấy thì 2 họ Ngô Văn và Nguyễn Quảng vì đã lâu nay không có ai làm nên công việc gì xuất chúng, tuy cũng vẫn đeo danh hiệu là Thổ ty nhưng xem tình trạng ngày nay đã hầu mất gần hết các quyền lợi riêng, mà sự tín ngưỡng của dân bản hạt đối với 2 họ ấy cũng theo với thời gian mà tiêu tan đi mất rồi. Cho nên tuy có là dòng dõi Thổ ty nhưng tựu trung không có quyền lợi gì đặc biệt làm tiêu biểu cho tính cách Thổ ty của mình.
Còn họ sau là Ma Doãn đang ở thời kỳ thịnh đạt, trên được nhà nước tin dùng, dưới được dân gian mến phục, còn giữ được chút ít tục lệ và quyền lợi riêng làm tiêu biểu cho Thổ ty của mình, thiết tưởng theo đúng chân nghĩa của 2 chữ Thổ ty mà nói thời hiện nay ở Chiêm Hóa chỉ còn có một họ Ma Doãn ấy là đáng kể vậy”[20].
Theo Daitudien.net, Thổ ty là chế độ quy định cho các Tù trưởng hay chúa đất ở các dân tộc thiểu số được cha truyền con nối, cai quản một vùng đất nhất định với điều kiện chịu thần phục triều đình trung ương. Ở Việt Nam, chế độ Thổ ty được các triều đình áp dụng đối với các dân tộc vùng Bắc và Đông Bắc. Ở vùng người Tày Việt Bắc gọi là chế độ Quằng, ở vùng người Thái Tây Bắc – chế độ Phìa tạo; ở vùng người Mường Hòa Bình và Thanh Hóa – chế độ Lang đạo; ở vùng người Thái Thanh Hóa và Nghệ An – chế độ Chúa đất. Các Tù trưởng và các Chúa đất được gọi là Thổ quan. Thổ ty bóc lột nông dân trong phạm vi quản lý của mình dưới các hình thức tô lao dịch và tô hiện vật. Chế độ Thổ ty ở Việt Nam về cơ bản còn tồn tại cho đến năm 1954.
Đàm Thị Uyên trong Tầng lớp Thổ ty của người Tày ở Cao Bằng đầu thế kỷ XX cho rằng: “Ở Cao Bằng trước năm 1945 đã tồn tại một chế độ xã hội gọi là chế độ Thổ ty, người Tày gọi là Quằng. Thổ ty là danh từ mượn của chữ Hán. Theo Từ Hải, Thổ ty là chế độ phong tước cho người địa phương thế tập quản lĩnh các vùng dân tộc thiểu số của các vương triều phong kiến Trung Quốc, khởi đầu từ thời Nguyên, Minh. Theo các cụ già làng ở Bảo Lạc, Bảo Lâm – Cao Bằng, thuật ngữ Thổ ty được sử dụng từ thời Nguyễn. Sau Cách mạng Tháng 8-1945, trong văn kiện của Liên khu ủy Việt Bắc và được các cán bộ chính trị công tác ở vùng dân tộc thiểu số sử dụng phổ biến, Thổ ty là chỉ những chúa đất cát cứ trong các dân tộc Tày, Nùng, Mông ở Việt Bắc.
Quằng (Thổ ty) từng tồn tại ở vùng Bảo Lạc miền Tây Cao Bằng, Đồng Văn – Yên Minh thuộc miền Đông Hà Giang, Mường Giàng (Chiêm Hóa) – Mường Lôm (Na Hang) thuộc miền Đông Bắc Tuyên Quang hay gọi là vùng giáp ranh của ba tỉnh: Cao Bằng – Hà Giang – Tuyên Quang, một khu vực núi non hiểm trở, giao thông trắc trở, thế lực của các Thổ tù lớn mạnh, vào những thập niên 30 của thế kỷ XIX, đã từng liên kết với Nùng Văn Vân, Tri châu Bảo Lạc tiến hành cuộc khởi nghĩa chống lại vua Minh Mệnh, vì thế các Thổ tù ở đây vẫn còn duy trì địa vị của mình cho đến đầu thế kỷ XX, và thậm chí tàn dư của chế độ này còn kéo dài cho đến tận những năm sau Cách mạng Tháng 8-1945[21].
Nguyễn Tuấn Liêu trong Mấy nét tình hình và nhận xét về chế độ Quằng trong dân tộc Tày ở Hà Giang cũng chỉ rõ: “Từ Cách mạng Tháng 8-1945 trở về trước và cho mãi đến năm 1949, trong dân tộc Tày ở Hà Giang đã tồn tại một chế độ xã hội, theo tiếng nói của đồng bào gọi là Quằng (có nơi phát âm là Quăng hoặc Quánh). Chế độ Quằng từ trước tới nay chưa được ai nghiên cứu tới, hơn nữa, có thể nói nó chưa hề được nhắc tới tên trong các sách báo, tài liệu nghiên cứu về vấn đề dân tộc bao giờ. Đôi khi trong các văn bản của các cấp Đảng bộ địa phương, chúng ta có nhắc tới chế độ xã hội này nhưng không phải bằng chính tên của nó mà bằng cái tên chung Chế độ Thổ ty để chỉ các hình thức chế độ phong kiến cùng kiểu có ở trong tất cả các dân tộc ở miền núi… Thổ ty là danh từ mượn từ chữ Hán được cán bộ chính trị công tác ở vùng dân tộc thiểu số (Thái, Mường, Tày, Mèo v.v…). Thổ ty không phải tiếng vốn có của người Tày hoặc người Mèo Hà Giang”[22].
Quằng là người đứng đầu và đại diện của bản mường trong tổ chức xã hội cổ truyền của người Tày, được thế tập từ đời này qua đời khác, chỉ tập trung ở một số dòng họ trong một số khu vực nhất định như họ Nông ở Bảo Lạc (Cao Bằng), họ Nguyễn ở Đồng Văn, họ Hoàng ở giáp Hoàng Su Phì (Hà Giang), họ Vi ở Lộc Bình (Lạng Sơn), họ Ma Doãn ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang), họ Đinh, họ Lý (Bắc Cạn, Lạng Sơn).
Ngược tìm về nguồn gốc và sự ra đời của chế độ Quẳng ở Hà Giang ngay từ hơn nửa thế kỷ trước, Nguyễn Tuấn Liêu đã tự đặt ra câu hỏi: Chế độ Quằng trong dân tộc Tày hình thành từ bao giờ rồi tự trả lời, điều này chưa rõ nhưng có điều chắc chắn là chế độ này đã có từ lâu đời. Trong dân gian, người Tày đến nay còn lưu lại những truyện về mối giao thiệp giữa triều đình phong kiến Việt Nam từ đời Lê với nhà Quằng. Theo lời các cụ già ở huyện Đồng Văn kể lại thì dưới triều Lê nhân dân miền núi giáp biên giới Việt – Trung có nhiều lần nổi dậy chống triều đình phong kiến Việt Nam. Để ổn định tình hình, triều Lê lúc bấy giờ đã phong hầu cho 7 dòng họ Quằng và cho mỗi một dòng họ được cai quản một vùng biên cương, gọi là Thất tộc phiên thần phân chia họ Nông ở Bảo Lạc (Cao Bằng) có thế lực nhất, họ Nguyễn ở Đồng Văn (trước kia là châu Đồng Quang thuộc châu Bảo Lạc); họ Hoàng ở Tu Lung, giáp Hoàng Su Phì ngày nay; họ Ma ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang, trước kia là châu Vị Long), họ Đinh, họ Lý, họ Vi (Bắc Cạn, Lạng Sơn ngày nay). Trong những dòng họ Quằng kể trên, có họ Nông, Ma, Nguyễn còn giữ được địa vị thống trị mãi tới cả thời Pháp thuộc và mấy năm sau Cách mạng tháng Tám. Trong công trình nghiên cứu của mình về chế độ Quằng ở Hà Giang, Nguyễn Tuấn Liêu đã chú ý đến chính sách kimi có từ thời Lý và cho rằng chế độ Quằng cũng như chế độ Lang, Phìa có từ trước thời Lý nhưng cụ thể có từ bao giờ thì điều này phải có cả một công trình tiếp tục nghiên cứu. Tác giả cũng dẫn ra một số sự kiện xảy ra tại Hà Giang vào thời vua Lê chúa Trịnh để thấy rằng mấy họ nhà Quằng như Nông, Hoàng, Nguyễn khi đó đã là phiên thần của triều đình, phù hợp với các huyền tích dân gian ở vùng Đồng Văn. Một số dòng họ Quằng khi đó còn tồn tại đến trước và sau Cách mạng tháng Tám (Nông, Nguyễn, Ma), trong khi có một số dòng họ khác đã suy tàn (Hoàng, Vi). Nếu như dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, chế độ Quằng đã tồn tại khắp các vùng dân tộc Tày thì đến thời Pháp thuộc, phạm vi tồn tại của nó đã bị thu hẹp. Riêng ở Hà Giang tuy cùng chung bối cảnh nhưng ảnh hưởng của nhà Quằng còn tương đối rộng so với những nơi khác bởi còn bắt gặp ở tất cả các xã có người Tày thuộc huyện Đồng Văn, một số xã phía bắc huyện Vị Xuyên (Yên Phú, Quản Bạ, Thuận Hòa), hai xã ở huyện Hoàng Su Phì (Tụ Nhân, Tân Tiến). Những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, lợi dụng việc chính quyền cách mạng mải đối phó với Quốc dân Đảng, trình độ dân trí còn thấp, một số nhà Quằng ở các xã Yên Ninh, Đồng Văn, Niêm Sơn đã cấu kết với vài nhóm thổ phỉ người Mông tìm mọi cách chiếm đoạt quyền lực ở địa phương núp dưới các danh nghĩa Chánh, Phó Chủ tịch, Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính xã. Ở các xã như Yên Phú, Thuận Hòa, Quản Bạ tuy chính quyền không nằm trong tay các thế lực cũ ở địa phương nhưng uy thế của nhà Quằng còn rất lớn trong dân chúng. Hầu hết đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị của Quằng vẫn được duy trì.
Diễn giải về thực trạng này, Đăng Nghiêm Vạn đã chỉ ra rằng, bản thân chúa đất và dòng họ tự cho mình đứng trên người dân, kể cả chức dịch, chỉ thuộc về một dòng họ duy nhất, cha truyền con nối. Ở vùng Mường, trong mỗi mường chỉ có một trong bốn dòng họ được làm Lang: Đinh, Quách, Bạch, Hà, trong khi tất cả dân chúng và chức dịch đều thuộc một dòng họ duy nhất: họ Bùi. Ở người Thái Đen, nếu truy về nguồn gốc, đó là họ Lò, Lò luông hay Lò lớn (sau đổi thành họ Cầm, Khẳn, Sầm, Ngân, Hoàng, Bạc Cầm…). Ở Mộc Châu, họ Sa tự nhận là họ Vi hay Cà; ở Mai Châu họ Hà gốc từ Mường Hước Pước Khà tức Bắc Hà (Lào Cai) về. Ở vùng Tày, là họ Hoàng, họ Hà, họ Nông, họ Vi, họ Thân, họ Giáp, họ Nguyễn… Lại còn những dòng họ từ nơi khác đến đuổi các dòng họ thế tập. Các quan lại dưới xuôi được cử lên làm lưu quan lấy con gái chúa đất cũ, mặc nhiên thành chúa đất một vùng. Đó là trường hợp: họ Đèo ở Mường Lay, Mường So; họ Nguyễn ở Văn Bàn, Yên Bái; họ Hoàng, họ Lục ở Lào Cai; họ Ma Sĩ, họ Nguyễn, một phần họ Hoàng ở Hà Giang.
Họ tự nhận là sinh ra từ một chất liệu riêng, không từ quả bầu chui ra, mà là con út của trời, tình cờ ăn lầm đùi trâu người trần dâng lên xin vua trời cử người xuống trị dân, buộc phải dời bỏ thiên giới xuống trần dạy dân (Thái), nên họ tự xưng là con trời, lụ phạ, là con của rồng (lụ luống) hay nhận rồng làm cha đỡ đầu như trường hợp họ Nông ở Bảo Lạc nhận là con thần thuồng luồng ngã ba sông Gâm, sông Neo và sông Nho Quế (hay Tà Lèng), vì vậy hàng năm đứa con yêu phải hiến tế cho vua thuồng luồng một chàng trai tơ. Các chúa đất khác tùy từng nơi tôn rồng làm thần văn hóa như người sáng tạo ra lúa, vải (me nâm, me mương)[23].
Không khái quát và luận giải mang tính khoa học được như Đặng Nghiêm Vạn, trong bài viết của mình, Nguyễn Tuấn Liêu nhìn nhận theo những niêm luật cũ và có phần giản đơn và quy kết có phần nặng nề hơn. Tác giả cho rằng, Quằng là giai cấp thống trị trong dân tộc Tày xưa kia. Có nhiều thuyết khác nhau về Quằng nhưng tựu trung nó mang tinh thần cơ bản là: ngày xửa ngày xưa, ở miền núi chưa có dân cư ở, rừng núi còn hoang vu. Nhờ có Quằng không biết từ đâu tới (có truyền thuyết nói từ đất Kinh lên, có truyền thuyết nói từ những địa phương cụ thể như Mường Giàng, Tam Tổng v.v…) có công đi tìm nơi đất tốt. Vừa đi Quằng vừa khấn trời đất, chỗ nào tốt thì báo cho dừng lại, chỗ nào không tốt thì báo cho biết là nơi này không nên ăn, đất này không nên ở (Mương nay bố pên kin/ Đin nay bố nkin dú) để tiếp tục đi tìm nơi khác. Quằng đi bằng thuyền đồng (lưa toòng) nên đến trước được đất tốt, Chảu đi bằng thuyền gỗ (lưa mạy) đến thứ hai còn dân đi bằng thuyền da (lưa năng) đến sau gặp đất xấu. Khi đã định cư, Quằng lại che chở cho dân trước nạn giặc cướp, ma quỷ. Vì thế, bất cứ ở đâu có dân là phải có Quằng. Quằng là người có công tạo lập ra bản mường, biến rừng hoang thành ruộng. Sự sống còn của Quằng quan hệ đến sinh mạng của mọi người dân. Chính vì thế mà trong nhân dân luôn truyền nhau câu cửa miệng: Nước cạn không bỏ thuyền, chạy hổ không bỏ Quằng (Nậm bốc bấu tà lưa/ Ni thưa bấu tà quằng)”[24].
Tổ chức xã hội truyền thống cao hơn bản ở vùng dân tộc Tày là Mường. Mường được hình thành bởi một khối bản nằm trong một thung lũng, một cánh đồng cùng sử dụng một dòng nước, có nhu cầu cần cho việc huy động nhân lực xây dựng và quản lý thủy lợi chung, giải quyết những tranh chấp sử dụng nguồn tài nguyên (đất đai, rừng núi, nguồn nước) giữa các nhóm bản. Theo Đàm Thị Uyên thì, việc xuất hiện Mường không những chỉ do yêu cầu tất yếu của các điều kiện sản xuất, mà nó còn xuất hiện từ quá trình lịch sử phát triển xã hội của dân tộc Tày. Sự chuyển biến từ cư dân khẩn hoang mở rộng không gian sinh tồn (mở rộng chinh phục vùng đất mới), từ cuộc sống không ổn định sang định cư ổn định lâu dài, xác lập quá trình thống trị bản mường của các tù trưởng, thủ lĩnh. Các tù trưởng, thủ lĩnh sau khi đã dẫn dắt đồng tộc giành được những vùng đất mới nghiễm nhiên đã được thừa nhận là người có công khai phá, đứng đầu điều khiển việc dựng bản dựng mường – khai khẩn đất đai, xây đắp những công trình thủy lợi (mương, phai, lái, lìn…). Tiêu biểu cho ý chí thống nhất của cộng đồng trong tất cả các việc từ sản xuất đến chiến tranh, từ công việc hàng ngày đến cúng lễ, được gọi là “việc mường”. Sự kết hợp chức năng xã hội (điều khiển quản lý việc mường) với chức năng thống trị đã nâng cao uy quyền của chế độ Tộc trưởng, Thủ lĩnh – người đứng đầu Mường và thiết chế xã hội Mường, mang chức năng xã hội bị Tù trưởng, Thủ lĩnh thao túng biến thành bộ máy thống trị trong vùng. Người đứng đầu Mường (Quằng), về nguyên tắc không chỉ thuộc về một dòng họ nhất định và có thể bị thay thế nhưng trên thực tế điều đó không bao giờ xảy ra[25].
Lý giải về vấn đề này, Nguyễn Tuấn liêu cho rằng, Quằng là giai cấp phong kiến cát cứ trong dân tộc Tày, một dân tộc thiểu số có dân số đông nhất các dân tộc thiểu số, nhưng dân cư ở phân tán, xen kẽ với nhiều dân tộc khác, không được tập trung như dân tộc Mường, Thái. Quằng trước kia phải thần thuộc vua quan phong kiến người Kinh. Thông thường phạm vi thống trị của một Quằng không lớn lắm. Tình hình đó khiến cho quy mô tổ chức bộ máy thống trị của nó nhỏ bé, hình thức tổ chức giản đơn và thường là không thống nhất giữa các địa phương, ngay cả hai địa phương gần nhau như xã Yên Minh và xã Quản Bạ. Nhưng xét về tính chất thì nó vẫn có đầy đủ tính chất của một bộ máy nhà nước, một công cụ áp bức giai cấp. Nó là một nhà nước phong kiến nho nhỏ ở tuổi sơ kỳ[26].
Từ những đặc điểm của Mường trong mối quan hệ giữa Mường với triều đình phong kiến vừa mang tính chất “tự trị” lại vừa lệ thuộc triều đình. Tù trưởng – Quằng, vừa mang danh nghĩa là bồi thần triều đình, vừa mang danh nghĩa là người chủ của Mường cũng được thể hiện trong thiết chế xã hội – chính quyền hay thiết chế chính trị – xã hội ở các cấp: Mường và Châu Mường.
Đứng đầu Mường có Quằng Mường thuộc dòng họ chính thống đầu tiên đến lập nghiệp, mang tính chất thế tập. Quằng Mường nào có tuổi tác hoặc có uy thế lớn còn được dân gọi một cách kính trọng là Hầu. Quằng Mường là Quằng lớn nhất.
Giúp việc cho Quằng Mường là bộ phận chức dịch gồm:
– Quằng Họ là người cùng họ với Quằng Mường, được giao cai quản một vùng nào đó trong khu vực thống trị của Quằng Mường.
– Quằng Khiến do Quằng Mường phái đến cai trị một vùng nào đó mà ở đấy dòng Quằng cũ đã tuyệt tự hoặc không xứng đáng như Quằng ở thôn Đồng Văn và xã Yên Phú là thuộc loại Quằng Khiến, vì gốc gác là do Quằng ở xã Mậu Duệ cử đến.
Ở xã Quản Bạ cũng chia làm mấy loại Quằng, nhưng tên gọi và chức trách cũng có khác ít nhiều. Đó là Quằng Bản (lớn nhất); Quằng Thoa Luây (nhỏ hơn), Quằng Thiêng Làu (thấp nhất).
Bộ máy giúp việc Quằng có các Chẩu. Chẩu là người thuộc dòng họ dân, gia tư khá giả, khôn ngoan, được Quằng lựa chọn cho làm. Những người này cũng có những quyền lợi nhất định: được Quằng phân chia cho một số ruộng chức dịch, ngoài ra còn dựa vào thế lực của Quằng để bóp nặn nhân dân, được nhiều hay ít là tùy cương vị cụ thể từng người. Thông thường mỗi Quằng có độ năm đến bảy Chẩu. Đối với Quằng Mường có phạm vi thống trị rộng thì số Chẩu còn nhiều hơn. Chẩu chia ra làm nhiều cấp:
– Chẩu Mường là Chẩu lớn nhất, thừa lệnh Quằng xem xét mọi công việc từ nội trị đến ngoại giao, điều khiển các Chẩu khác, có quyền thay Quằng khi Quằng đó đi vắng giải quyết mọi công việc đột xuất nảy sinh.
Chẩu Mường trực tiếp thừa lệnh Quằng xem xét mọi việc từ nội trị đến ngoại giao, từ sản xuất, trị an đến hiếu hỉ, lễ bái của Quằng. Dân chúng sợ Chẩu không kém gì sợ Quằng.
– Chẩu Sảng là Chẩu lớn thứ hai sau Chẩu Mường, cùng Quằng Mường điều hành công việc chung.
– Chẩu Họ phụ trách việc huy động dân phu, phục dịch cho nhà nước phong kiến; đôn đốc huy động lao dịch, coi việc cày cấy của nhà Quằng.
– Chẩu Chướng phụ trách đôn đốc việc biếu xén trong các dịp lễ tốt, tổ chức việc ma chay, cưới xin, cúng bái cho nhà Quằng.
– Chẩu Khiến phụ trách công việc trật tự trị an (bắt giữ tội phạm, chỉ huy dân binh lùng bắt khi có giặc cướp)…
Dưới Chẩu, có các Tàn những người không có quyền lợi gì đáng kể, chỉ là lũ người đầu sai của Quằng và Chẩu. Ở Quản Bạ không có Tàn.
Ngoài ra còn phải kể đến một tầng lớp nữa có vai trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy thống trị của Quằng, đó là các ông Mo, ông Tạo giúp việc cúng bái cho Quằng. Riêng ở xã Quản Bạ, bộ máy phục vụ việc cúng bái của Quằng có từ 6 đến 12 người do Quằng chỉ định, mỗi người thuộc một họ nhà dân khác nhau như sau: ông Chẩn (họ Lương) cúng bái ngày tết, ngày hội Lồng Tổng, khi có người nhà chết; Pú Chả (họ Viên) cúng khi hạn hán phải cầu đảo; Chẳng Pha Reo (họ Chú), vác kiếm dẫn đường đám ma nhà Quằng từ nhà đến mộ, cúng phật ở chùa cho Quằng; quan Quành (họ Nguyễn), ngồi cúng và nhận đồ phúng viếng của nhân dân khi Quằng chết; hai người Pà Cò (vác cờ): ngày hội Lồng Tồng vác cờ cùng những thầy cúng khác rước Quằng đi quanh bản, v.v…
Quằng có đội dân binh, mọi người trong lãnh địa phải thay phiên nhau có nghĩa vụ làm binh dịch. Và phương châm tĩnh vi dân, loạn vi binh được quán xuyến thực hiện triệt để.
Dưới Mường có Bản và Động, có Chẩu bản  Chẩu động. Theo thứ bậc đẳng cấp xã hội của cư dân thuộc bản mình cai quản, các Chẩu này có nhiệm vụ đôn đốc thực hiện nghĩa vụ đối với Quằng, nghĩa vụ việc mường và với chính quyền phong kiến.
Về tổ chức Châu Mường, theo Đàm Thị Uyên, thì Châu Mường tương đương với một châu hay một huyện trong thiết chế hành chính phong kiến Việt Nam. Ở Bảo Lạc, thổ tù họ Nông được nhà Lê phong chức Đại tri châu thế tập nắm giữ thiết chế chính trị – xã hội địa phương này cho đến đầu thế kỷ XX. Bộ máy hành chính được cấu trúc như sau:
Đứng đầu Châu Mường là Quằng họ Nông đảm nhận chức Tri châu mà nhân dân địa phương gọi là Quản Chúa, hay Chúa Công, hoặc Chiếng Cấn, nắm quyền tối cao về hành pháp, tư pháp và quân sự. Giúp việc cho Quản Chúa gồm có:
– Tam Quản giúp việc cho Tri châu về các mặt hành chính, nội trị, ngoại giao, truyền lệnh của Quản chúa đến các chức dịch khác, tạm thay quyền Tri châu khi Tri châu đi vắng.
– Một số chức dịch gọi là Chẩu được tuyển chọn từ họ hàng thân thích của Quằng hay từ những nhà dân được Quằng tin cẩn. Mỗi người đảm nhận một công việc cụ thể từ việc sản xuất đến lễ tiết, một biên dịch coi giữ kho tàng, và một Sứ Dề (thư ký của Tri châu).
– Tuần Tổng: huấn luyện và chỉ huy quân đội.
– Quản Chiêu: theo dõi công việc các dân tộc không phải là Tày.
Châu có lực lượng vũ trang mặc dầu không phải quân đội thường trực, nhưng tất cả tráng đinh đều được kinh qua các đợt tập huấn và tổ chức biên chế thành các đội ngũ đứng đầu là một cai đội. Hàng ngũ dân binh này được chia thành hai loại: một loại gọi là Nội quân,được tuyển chọn từ những họ hàng thân thích hoặc các gia nô của Nhà chúa biên chế thành và do chức Cai quân nội chỉ huy, có nhiệm vụ truy nã, đàn áp bắt bớ, giam giữ những kẻ chống đối hay phạm pháp và Ngoại quân được phân thành 5 đội (Tả, Hữu, Tiền, Hậu, Trung quân), do chức Cai quân ngoại chỉ huy, lúc thời bình thì ở nhà sản xuất, khi có chiến tranh thì đi đánh dẹp và thay nhau tuần phòng canh giữ các đồn ải.
– Mo Then: đứng đầu là Mo Tổ chuyên chủ trì những đám lễ cho nhà Quằng, họ nhà Quằng. Thứ đến là Mo Slang chuyên viết tụng văn kể công lao của Quằng đối với con người và cảnh vật, cuộc sống ở địa phương, trong những dịp hội hè tế lễ chung và còn một số loại mo khác mỗi người một việc. Then cùng phối hợp với Mo chủ trì và tiến hành tế lễ trong các đền thờ Ma Quằng (mỗi lãnh địa có một đền thờ Ma Quằng). Có thể nói đây là bộ phận giúp việc đắc lực cho quản chúa thực hiện chuyên chính về mặt tinh thần tư tưởng đối với nhân dân, duy trì quyền uy hiện thực của chúa đất.
Dưới châu là cấp tổng mà đứng đầu là Cai tổng và một Phó cai tổng. Dưới tổng là xã, đứng đầu là một Trưởng xã và một Phó xã (hay gọi là Lý trưởng, Phó lý). Dưới xã là bản có mộtTrưởng bản đứng đầu và một viên giúp việc gọi là Poọng.
Những chức dịch cao cấp cũng được cha truyền con nối, có khi còn có cả một số bản Lục Slườn, cả việc lợi dụng chức quyền bóc lột nhân dân. Đối với các chức dịch trong dòng họ Quằng, thì được miễn gánh vác, miễn phu phen và được hưởng ruộng đất, ngược lại các chức dịch không phải quý tộc cao cấp thì không được hưởng quyền lợi đó.
Theo tục lệ dân có quyền bãi bỏ Quằng khi Quằng tỏ ra “không còn xứng đáng” và thay thế bằng Quằng khác. Nhưng trong thực tế, do tổ hợp gồm nhiều yếu tố liên kết chặt chẽ, trường hợp mất chức, mất quyền rất hiếm khi xảy ra[27].
Viết về vấn đề này, Đặng Nghiêm Vạn cũng cho rằng, sự đồng nhất bản thân chúa đất với cộng đồng còn ở chỗ buộc toàn dân phải coi lai lịch dòng họ chúa là lai lịch của toàn mường; đàn ông dòng họ chúa có tên gọi riêng, là Tạo là Quằng, là Chẩu…; phụ nữ là Nàng, Mế nàng (bà) hay là Phẻ (Bảo Lạc). Dân phải xưng với chúa là Vài (trâu), là Mu (lợn), gọi con mình là Thác (châu chấu), là Nộc (chim – Bảo Lạc); coi việc mường vì loạn lạc mà vắng chúa là điều không thể có được, phải tìm mọi cách để chúa hiện diện nhằm yên lòng dân. Đặc biệt, mỗi lần chúa mới lên thay chúa khác cầm quyền, kể cả trong trường hợp chiếm đoạt, nếu thuộc dòng họ khác, thì phải đổi họ[28].
Sơ đồ bộ máy hành chính của Quản chúa (trường hợp họ Nông ở Bảo Lạc)[29]
(cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX)
3.png
Ở những vùng có chế độ Quằng xã hội phân hóa thành hai tầng lớp rõ rệt: tầng lớp thống trị gồm dòng họ Quằng, các chức dịch cao cấp và tầng lớp bị thống trị gồm các dòng họ nhà dân của các dân tộc. Tầng lớp Quằng có nhiều quyền uy về kinh tế, chính trị và xã hội.
Tầng lớp Quằng là chủ sở hữu về ruộng đất và các sản vật địa phương. Quằng là một chúa đất có quyền uy tuyệt đối, không những là chủ sở hữu đất canh tác, còn sở hữu cả đất đai, rừng núi, sông nước, muông thú và mọi sản vật trong phạm vi lãnh địa quản lý.
Theo luật lệ quy định thì các khu rừng gỗ quý, các sản vật quý ở trong rừng, tổ ong cánh kiến, hươu nai, gấu, báo, các khúc sông nhiều cá lắm tôm đều thuộc nhà Quằng, nếu ai muốn động đến phải nộp cho nhà Quằng những thú quý và một phần sản phẩm, như phát nương thấy tổ ong không được đụng tới, bắn được hổ phải nộp cả con, bắn được gấy phải nộp mật và bốn chân, được hươu nai phải nộp hai lườn thịt thăn nguyên vẹn, nếu có nhung phải nộp cả bộ, được lợn rừng phải nộp một chân trước, khúc sông gần chặng có cá của Quằng không ai được lai vãng đến đó bắt cá và ai bắt được cá ở sông suối thì con to nhất phải mang nộp cho Quằng…
Từ công việc sản xuất đến ăn, ở, mặc, cưới xin, ma chay… của nhà Quằng đều do nông dân lệ thuộc đảm nhận và cung cấp.
Trước thời Pháp thuộc, trong chế độ Quằng xã hội phân chia thành hai giai cấp theo ranh giới huyết tộc rõ rệt: một bên là dòng họ quý tộc gọi là quằng, nắm quyền thống trị mọi mặt, một bên là những dòng họ nông dân lao động – thực chất là nông nô – gọi là người Thổ (tiếng thổ ở đây không có nghĩa là người dân tộc Thổ, mà chỉ có nghĩa là tầng lớp bình dân, lao động). Quằng trực tiếp chiếm hữu một số ruộng đất tốt. Để canh tác số ruộng đất này và làm các công việc phục vụ khác trong nhà, quằng bắt nhân dân trong vùng nó thống trị lần lượt đến làm không công cho chúng, hoặc có nơi chúng giao hẳn cho những hộ – gọi là Tiểu gia (Yên Minh) trong một xóm, một thôn nhất định phải hoàn toàn chịu trách nhiệm làm không công cho chúng từ khi cày cấy đến khi đổ thóc vào bịch. NhữngTiểu gia này được miễn những nhiệm vụ lao dịch khác. Ngoài số ruộng trên đây, còn một loại ruộng nữa tuy chúng phân chia cho những người làm việc trong bộ máy cai trị của chúng, và một phần nhỏ được phân chia cho những người nông nô hàng ngày phải đến phục vụ các công việc khác trong sinh hoạt của nhà quằng. Tên những ruộng này được gọi tùy theo việc mà người nông nô phải phục vụ: ruộng hầu khách (nà soài pát), ruộng trải chiếu (nà pái phục), ruộng mắc màn (nà khang sút), ruộng giặt gối (nà mon), ruộng coi cối giã gạo (nà lang tôi), v.v… Quằng có thể rút bớt số ruộng này về để trực tiếp canh tác hoặc phân chia cho con cháu nếu thiếu. Như vậy là, đối với loại ruộng này, Quằng không những chỉ có quyền phân phối, mà trên thực tế còn có quyền chiếm hữu nữa. Phần ruộng đất còn lại được phân phối cho dân chúng. Ban đầu họ chỉ có quyền sử dụng, về sau lại có quyền để lại cho người trực tiếp thừa kế. Dân chúng ngày càng khai phá thêm ruộng đất của mình. Người ta có quyền bán lại những ruộng đất này như là ruộng tư của mình. Nhưng bất kỳ là sử dụng ruộng đất công hay ruộng đất tư do mình khai phá, hoặc do cha ông khai phá để lại cho mình, nếu ruộng đất đó thuộc khu vực thống trị của Quằng, người nông dân đều phải làm tròn một số nghĩa vụ đối với Quằng. Những nghĩa vụ này có khi được ghi thành văn bản:
– Hàng năm phải đi lao dịch phục vụ Quằng: cày cấy, cắt cỏ, chăn trâu, làm nhà cửa v.v… gọi là đi làm Tung đãi hay Tiểu gia. Mỗi năm trung bình một hộ phải phục vụ ít ra cũng 2, 3 tháng.
– Phải làm nhiệm vụ binh dịch khi có giặc cướp.
– Hàng năm phải chia nhau đóng góp để cung phụng tất cả những nhu cầu về sinh hoạt mà Quằng cần thiết: bông để may mặc, trầu cau để ăn, trâu bò lợn gà để chi dùng khi có ma chay, cưới xin, trong những ngày tết v.v… Ngoài những khoản cung phụng thường kỳ như trên, ở mỗi nơi mỗi dòng họ Quằng còn đặt ra những khoản cung phụng khác nữa.  
– Người nông dân ở đây không phải chỉ phải đem nộp một phần sản phẩm thu hoạch được trên ruộng đất của mình mà ngay cả thú vật săn bắn được trên rừng, tôm cá bắt được ở dưới sông, dưới suối cũng phải mang biếu Quằng một phần.
Mỗi một khoản cung phụng trên đây đều được quy định cụ thể: một năm mỗi hộ phải nộp bao nhiêu con cú bông, bao nhiêu lá trầu; săn được hươu nai thì phải nộp mấy đùi, đùi trước hay đùi sau v.v… Nếu người nông dân nào không làm đầy đủ nghĩa vụ đối với Quằng sẽ phải chịu nhiều hình phạt khác nhau, trong đó có cả hình phạt tịch thu ruộng đất, trục xuất đi nơi khác. Trong trường hợp người nông dân chết đi, không có người thừa tự (không có con hoặc chỉ có con gái) thì ruộng đất của người đó sẽ bị Quằng thu hồi và sử dụng: trực tiếp canh tác hay phân phối cho những nông dân nào nhận làm đầy đủ nghĩa vụ đối với Quằng. Những hình thức cung phụng trên đây chính là các hình thức khác nhau của địa tô lao dịch và địa tô hiện vgật mà bọn Quằng tiến hành bóc lột nông nô. Đó là hai hình thức địa tô xuất hiện ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa của lịch sử phát triển của chế độ phong kiến nói chung. Điều đó chứng tỏ rằng dưới chế độ Quằng, ngay đối với phần ruộng đất do ông cha để lại cho hoặc do mình mua hay khai phá được, người nông dân tuy về danh nghĩa có quyền sở hữu, nhưng cũng không có quyền sở hữu hoàn toàn. Thực chất số ruộng đất đó vẫn thuộc quyền sở hữu của Quằng. Điều đặc biệt nữa là Quằng không những chỉ có toàn quyền chi phối về ruộng đất, mà có quyền chi phối ngay cả bản thân con người nông dân nữa, có quyền nhường lại, bán họ lại cho kẻ khác: Quằng họ Nông ở Bảo Lạc trước ia có con gái lấy chồng Quằng họ Nguyễn ở Đồng Văn đã cắt cả xã Sơn Vĩ (trước thuộc Bảo Lạc, nay thuộc Đồng Văn) cho con gái làm của hồi môn khi về nhà chồng; từ đó nông dân Sơn Vĩ phải theo con gái họ Nông về phục vụ Quằng họ Nguyễn. Ở nhiều nơi như xã Quản Bạ, nhà Quằng còn đặt ra tục lệ sơ dạ là, bất kỳ con gái nhà dân nào trước khi về nhà chồng đều phải về ngủ với Quằng ba tối. Có như vậy người con gái sau này mới gặp điều may mắn, nếu ai không chịu sẽ bị trăm bề khốn quẫn, không mất trâu, mất ruộng thì cũng bị phạt vạ nặng nề.
Rõ ràng, Quằng là người sở hữu tối cao toàn bộ ruộng đất, núi rừng, sông suối và sản vật trong vùng chúng thống trị, đồng thời cũng là người chiếm hữu không hoàn toàn người nông dân. Quằng đã thuộc về tầng lớp phong kiến cát cứ còn người nông dân là những nông nô lệ thuộc. Chính vì những lẽ trên đã nảy sinh ra một thực tế là: chỉ có những người xuất thân từ dòng họ quý tộc cha truyền con nối. Người thuộc dòng họ chúng dân bất kể trong trường hợp nào cũng không bao giờ có thể được làm Quằng. Nếu nơi nào dòng họ Quằng tuyệt tự, phải đi đón dòng họ Quằng khác về thay thế. Như trường hợp Quằng họ Nông ở Bảo Lạc tương truyền từng có đời tuyệt tự, phải lấy con rể Quằng họ Nguyễn ở Đồng Văn về kế vị là vì thế.
Dựa trên cơ sở ruộng đất công, các chúa đất ở địa phương nắm quyền phân phối ruộng đất. Đất đai từ hình thức “Nà cúa háng mường, dân slo kin bjoóc” (ruộng của hàng mường, dân xin ăn hương hoa tức là ruộng thuộc quyền sở hữu của mường còn người dân chỉ có quyền chiếm hữu có điều kiện mà thôi), chuyển thành “Nà của háng mường, đin của chúa” (Ruộng của háng mường đất của chúa, tức là mặc dù trong quan niệm ruộng vẫn là của công, nhưng nằm trong lãnh địa của chúa đất đã trở thành sở hữu của chúa). Cư dân trong lãnh địa trở thành thần dân của lãnh chúa. Uy quyền lãnh chúa phụ thuộc vào địa vực khống chế rộng hay hẹp. Địa vực khống chế càng rộng thì thế lực càng lớn. Các mường ở cạnh nhau có sự lệ thuộc nhau – mường nhỏ, thổ tù thế lực yếu, thần phục mường lớn, thổ tù thế lực mạnh, thần phục thế lực mạnh. Ví dụ, thổ tù họ Nông Bảo Lạc với mường trung tâm là Mường Muồn chiếm toàn bộ phần đất rộng lớn miền đông Bảo Lạc, các chủ mường khác như: Quằng Ma Sĩ ở Mường Bang, Quằng Dương Đình ở Mường Đin… thuộc Tây Nam Bảo Lạc, Quằng các họ Nguyễn ở Đồng Văn, Yên Minh thuộc Hà Giang, Quằng họ Ma Doãn ở Chiêm Hóa, Quằng họ Nguyễn ở Na Hang… thuộc Tuyên Quang đều phải thần phục… Về sau dần dần bị thu hẹp ở châu Bảo Lạc, Cao Bằng.
Căn cứ vào thế lực khống chế địa vực rộng hẹp ở vùng Đông Bắc, chúa đất chia ra làm hai loại sau:
– Cai quản một châu mường tương đương với một châu hoặc lớn hơn chút ít mà dân địa phương gọi là Quản chúa hay Chúa công.
– Cai quản một vùng mường tương đương một tổng hoặc một xã. Cũng được nhà nước phong chức tước, nhân dân địa phương gọi là Quằng mường.
Như vậy, Quằng với danh nghĩa là người đại diện cho bản mường, được triều đình phong kiến phong chức tước, cho cai quản một vùng, thực chất là lãnh chúa phong kiến trong vùng, nắm toàn quyền sở hữu đất đai trong phạm vi chúng thống trị. Cho nên dù ruộng công hay ruộng tư, thì số ruộng đất đó vẫn thuộc quyền quản lý của Chúa đất – Quằng[30]. Dưới thời Pháp thuộc, chế độ Quằng để tồn tại được thì nó phải có những biến đổi mới. Về căn bản, Quằng vẫn duy trì những đặc quyền đặc lợi bóc lột cũ, ngoài ra nó còn kết hợp cả những hình thức bóc lột mới của địa chủ phong kiến (phát canh thu tô) hoặc của tư bản nông thôn (thuê nhân công, nuôi người ở, cho vay nợ lãi, buôn bán, đầu cơ v.v…). Nghiên cứu một số gia đình Quằng ở xã Yên Phú huyện Vị Xuyên trước Cách mạng tháng Tám thì thấy rõ tình hình đó.
Nguyễn Thế Ru:
a/ Về ruộng đất:
– Chiếm hữu 1800 bó mạ (độ chừng 150 bó mạ bằng một mẫu Bắc Bộ). Ruộng trực tiếp canh tác bằng cách sử dụng không phải trả công sức lao động của nhân dân.
– Chiếm hữu 1500 bó mạ ruộng – mà ở địa phương gọi là ruộng công – phân cho những gia đình nông dân phục vụ hầu hạ gia đình y. Số ruộng này được phân chia cụ thể như sau:
– Ruộng hầu khách                       150 bó mạ
– Ruộng đón dâu                          120 bó mạ
– Ruộng mắc màn                         300 bó mạ
– Ruộng làm cối nước giã gạo       100 bó mạ
– Ruộng làm phướn đưa ma          240 bó mạ
– Ruộng làm cơm sáng                  300 bó mạ
– Ruộng trải chiếu                         300 bó mạ
– Ruộng thực sự Nguyễn Thế Ru phải bỏ tiền ra mua (cố nhiên cũng chỉ là hình thức chiếm đoạt khéo) gọi là ruộng tư chỉ có 950 bó mạ.
b/ Về rừng: Trực tiếp chiếm hữu 10 mẫu (4 mẫu ở Nà Liêng, 3 mẫu ở Nà Mén, 3 mẫu ở Nà Pi Ia) để lấy gỗ, vầu, cọ và các lâm sản khác.
– Nguyễn Đình Thừa: a/ Về ruộng đất:
– Chiếm hữu trên 1000 bó mạ để trực tiếp canh tác.
– Chiếm hữu 1570 bó mạ, phân chia cho các gia đình nông dân hầu hạ gia đình y. Trước Cách mạng tháng Tám, y đã rút trong số ruộng này lấy 600 bó mạ để phát canh thu tô và 300 bó mạ để làm của hồi môn cho con gái đi lấy chồng.
– Ruộng do Quằng thực sự bỏ tiền ra mua chỉ có 350 bó mạ.
– Ngoài các hình thức bóc lột cũ của chế độ Quằng, nhà Quằng còn dựa vào thế lực của nhà nước để vơ vét của nhân dân bằng phù thu lạm bổ, hối lộ, phạt vạ, giữ độc quyền bán muối với giá cắt cổ. Ngoài ra, Quằng còn tiến hành bóc lột bằng đầu cơ buôn bán (chủ yếu là buôn thuốc phiện lậu), cho vay nặng lãi, thuê mướn nhân công, nuôi người ở.
Trong 30 năm, Nguyễn Đình Thừa đã nuôi 16 cặp vợ chồng người ở.
Nông thôn ở đây, về cơ bản vẫn có sự phân hóa thành một bên là phong kiến cát cứ – Quằng -, một bên là nông dân, thực chất là nông nô. Bên cạnh sự phân hóa cũ, lại song song tồn tại một sự phân hóa giai cấp mới. Nông thôn không phải chỉ có hai giai cấp thuần nhất (Quằng và nông nô) như dưới chế độ Quằng trước thời Pháp thuộc. Cùng với chế độ bóc lột của Quằng còn có tác động của quan hệ tiền tệ – hàng hóa, dần dần thúc đẩy nội bộ nông dân phân hóa theo hai chiều: số đông bị đẩy xuống địa vị cố nông, bần nông và trung nông, số ít trở thành phú nông và địa chủ, những giai cấp bóc lột mới[31].
Còn một số đặc trưng nữa như Đàm Thị Uyên cho biết là, dòng họ Quằng nắm giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy hành chính, dựa vào đó bóc lột nông dân. Trong sinh hoạt hàng ngày, giữa dòng họ Quằng và dòng họ nhà dân có sự cách biệt ngặt nghèo.
Con trai dòng họ Quằng có thể lấy năm thê bảy thiếp con gái nhà dân, trái lại, con trai nhà dân không được lấy con gái nhà Quằng. Dân phải gọi Quằng là Chúa là Quằng, gọi vợ Chúa là Phè. Người vợ xuất thân từ dòng họ Quằng được gọi là Phè, xuất thân từ họ nhà dân chỉ được gọi là A. Bố mẹ vợ gọi con rể (xuất thân từ dòng họ Quằng) là Ông Khươi chứ không được gọi là Lục Khươi, hoặc con gái làm dâu nhà Quằng cũng phải gọi là Nàng Lùachứ không được gọi trống không là Lục Lùa. Con cái nhà Quằng dù đang còn ẵm ngửa, dân cũng phải gọi là Ông Báo, Bà Nàng, dân tự xưng là Khỏi. Đi đường gặp Quằng dân phải xuống ngựa, ngả mũ nón, đứng né sang bên đường, chắp tay kính cẩn vái chào, khi đi qua trước cửa nhà Quằng, dân phải cúi đầu, ngả nón đi thật nhanh, không được ngó ngang liếc dọc.
Công việc dù vội, dù khẩn cấp đến mấy, nhưng thấy Quằng đang đi đằng trước cũng không được vượt lên. Những thứ như nhà, giường, áo… của Quằng dân không được bắt chước làm theo (như dân không được làm nhà cột kê trên đá tảng, cột nhà dân phải luôn nhỏ hơn cột nhà Quằng, không được lợp ngói, lá ván phẳng lì như nhà Quằng; không được mặc áo lụa là, mặc quần trắng, đội khăn xếp, chỉ được mặc quần màu chàm, chít khăn bó hay chít khăn mỏ rìu…).
Cách thức thống trị của Quằng là lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo một cách triệt để nhất, sâu sắc nhất, rộng rãi nhất, hay nói cách khác Quằng sử dụng thần quyền để ràng buộc, áp chế tư tưởng tinh thần phản kháng của quần chúng nhân dân, buộc phải cam chịu cảnh đời bị áp bức, bóc lột.
Có thể nói rằng tôn giáo tín ngưỡng là chỗ dựa tinh thần của chế độ Quằng và chính lực lượng tinh thần này có tác dụng thực sự mạnh mẽ, vững chắc như lực lượng vật chất.
Quằng bịa đặt ra rằng tổ tiên và bản thân họ có sức mạnh Ma Na (uy lực siêu nhiên) che chở, vi phạm vào chúng là vi phạm đến siêu nhiên, vi phạm vào sự thịnh vượng của bản mường, vào sự phong đăng của mùa màng, sinh sôi nảy nở của gia súc. Chỉ có Quằng mới là người liên hệ giữa thần linh ma quỷ với con người, để cầu xin giáng phúc, giáng họa, kể cả việc cầu xin lực lượng huyền bí hoặc giết chết một người nông dân lương thiện nào đó dám trái lệnh, phản kháng. Mo, Then cũng chỉ là người giúp việc cho Quằng chứ không thể trực tiếp liên hệ với thần linh.
Nhân dân lao động tùy theo mức độ khác nhau mà sự lệ thuộc vào Quằng cũng khác nhau. Cụ thể có các loại sau:
– Tầng lớp Tày: Nguồn gốc lịch sử họ là thành viên của công xã nông thôn trước đây, khi xã hội bước vào thời kỳ phong kiến, thì tầng lớp này cũng bị phong kiến hóa dần, trở thành những người nông dân tự do, và dưới chế độ Quằng, họ là thành viên tự do trong vùng, được phân phối ruộng đất công và được tự do khai phá thêm đất hoang để làm ruộng rẫy trồng trọt khi đã được chúa đất đồng ý cho phép. Lúc đầu ruộng đất công hay ruộng đất tư được bản mường cấp hoặc tự khai phá… họ chỉ có quyền chiếm hữu và sử dụng có điều kiện theo nguyên tắc là “Nà của háng mường, đin của chúa, dân so kin bioóc” (ruộng của háng mường, ruộng đất của quan, dân xin ăn hương hoa) nên không có quyền sở hữu. Về sau họ có quyền cho con cháu kế thừa. Đối với ruộng đất do tổ tiên để lại họ cũng có quyền được bán nữa. Hàng năm người nông dân Tày phải làm tròn một số nghĩa vụ cho Quằng như:
+ Lao dịch: sửa chữa, mương phai, công nghệ nước, cày cấy, chăm sóc và thu hoạch mùa màng, chăn dắt trâu ngựa… Khi Quằng làm nhà, phải nộp nguyên vật liệu: hoành, kèo, cột, gianh, ngói máng, tre gỗ ván làm sàn, làm vách… (tất cả những thứ đó đem đến phải được Quằng chấp nhận nếu không ưng phải tìm cái khác). Các hình thức lao dịch trên, tục địa phương gọi là “di phiên” mỗi phiên khoảng 10 ngày.
+ Phải cung phụng cho nhu cầu của gia đình Quằng: bông để kéo sợi, trầu cau để ăn; trâu, bò, lợn, gà trong những dịp lễ tết, hội hè, ma chay, cưới xin… và khi chúa cần là có. Một số địa phương có đặc sản quý như cá óc thơm, vải, tuyết lê, thuốc quý… đều phải nộp cho gia đình Quằng.
+ Phải làm nghĩa vụ “binh dịch” khi có giặc dã phải thường xuyên canh gác nhà trại của Quằng.
Ngoài nghĩa vụ đối với Quằng, người dân còn phải làm một số công việc chung của bản mường: đào mương, đắp phai, làm đường xá, tham gia và đóng góp vào các buổi tế lễ chung, khi có giặc, toàn dân đều là binh.
Những hình thức phục dịch và cống nạp trên đây “là thể hiện sự khác nhau của tô lao dịch và tô hiện vật mà bọn quằng đã tiến hành bóc lột. Đó là hai hình thức địa tô xuất hiện ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa lịch sử phát triển của chế độ phong kiến nói chung.
– Tầng lớp Lục Slườn: Lục Slườn có nơi gọi là Thủ hạ (Chiêm Hóa, Tuyên Quang). Đây là tầng lớp nông nô bị lệ thuộc nhiều hơn vào Quằng và địa vị xã hội thấp hơn tầng lớp Tày, có thể gọi họ là loại nông dân bán tự do trong xã hội phong kiến tương tự như loại Cuông, Nhốc ở người Thái Tây Bắc, hoặc Thin ở vùng người Mường Hòa Bình.
Về nguồn gốc lịch sử, Lục Slườn là những người đồng tộc từ nơi khác đến ngụ cư trên lãnh địa của chúa đất hoặc những tù binh bị bắt trong chiến tranh, từng biến thành gia nô của các tổ tù địa phương.
Trong tầng lớp Lục Slườn có cả những người Tày vì một lý do nào đó (mắc nợ Quằng hoặc không làm đủ nghĩa vụ…), phải làm Lục Slườn.
Không chỉ Quằng mới có Lục Slườn, mà các chức dịch trong bộ máy thống trị của Quằng cũng có.
Lục Slườn tuy có tài sản riêng, cuộc sống gia đình riêng nhưng chúa có quyền can thiệp vào cuộc sống riêng tư của họ như khi tuyệt tự thì tài sản quy vào nhà của chúa. Lục Slườn từ đời này qua đời khác đều phụ thuộc vào chúa, họ chỉ được phép lấy những người trong cùng một đẳng cấp, nếu lấy những người ở đẳng cấp Tày, thì nếu người vợ hay người chồng thuộc đẳng cấp trên, cũng phải chịu thân phận làm Lục Slườn hoặc phải mất một số tiền lớn nộp cho nhà chúa. Địa vị xã hội của Lục Slườn cũng có thể được nâng lên, nếu như có thế mạnh về kinh tế và nộp cho chúa đất một số tiền nhất định hoặc được người Tày trong bản đồng ý.
Lục Slườn là tầng lớp thấp kém trong xã hội, vì trên danh nghĩa họ là người của nhà chúa, không phải tham gia những công việc công cộng, phu phen, tạp dịch. Cũng không phải làm nghĩa vụ “binh dịch”, không được tham gia vào các công việc chung của bản mường như hội hè hay những hoạt động tôn giáo chung, không được tham gia chức vụ gì trong bộ máy cai trị địa phương.
– Tầng lớp Khỏi Slườn có nơi gọi là Lục Khỏi (hay còn gọi là gia nô) là những người mắc nợ phải mang thân đi bán hoặc đi ở để gán nợ, những người vi phạm luật tục (những kẻ loạn luân, thông dâm không đủ tiền phạt vạ), xúc phạm đến chúa đất và những người không nơi nương tựa phải đi ở… Khỏi Slườn chủ yếu làm những công việc nội trợ và hầu hạ trong nhà, họ không tham gia lao động sản xuất nông nghiệp, không làm các nghề phụ gia đình… Họ không có nhà cửa, tài sản riêng, sống trong nhà và phụ thuộc hoàn toàn vào nhà chủ. Nhà chủ coi họ như một thứ tài sản riêng, một loại “công cụ lao động”, biết nói, tùy ý sai khiến, đánh đập, chửi mắng và tùy ý xử lý (như có quyền đem bán hoặc nhượng lại cho người khác…). Chủ cũng cho phép Khỏi Slườn chuộc mình, tự giải phóng như người nào không trả được nợ hay nộp được vạ phải đi ở ba đời (đời mình, đời con và đời cháu) mới được giải phóng và trở thành người dân tự do. Hai người nô lệ nam nữ muốn lấy nhau thì phải thêm một đời nữa tức là đến đời chắt mới được giải phóng.
Người nô lệ muốn làm một người dân tự do thì phải trả xong nợ, nộp xong vạ hay cho người khác đi ở thay mình, nếu không thì người vợ hay người chồng mới cưới, dù là dân tự do cũng biến thành nô lệ. Luật lệ này rất khắt khe, ít trường hợp Khỏi Slườn được giải phóng trước thời hạn. Nếu Khỏi Slườn muốn lấy vợ hay chồng thuộc đẳng cấp khác thì phải nộp cho chủ 50 đồng bạc trắng (1 con trâu giá từ 3 đến 5 đồng bạc). Đây là một khoản tiền mà họ không thể có được. Khỏi Slườn lại không có kinh tế riêng, nên hoàn toàn nương nhờ vào sự rộng lượng của gia chủ cho giải phóng trước thời hạn.
– Tầng lớp Lục Lùng bao gồm các dân tộc khác với lãnh chúa Quằng sống trong khu vực khống chế của Quằng… Họ là những dân tộc di cư đến muộn hơn như Nùng, Mông, Dao, Lô Lô, Sán Chay… Những dân tộc này nói chung là làm nương rẫy, muốn khai phá đất đai trồng trọt họ phải xin phép lãnh chúa và phải chịu sự bóc lột của lãnh chúa bằng tô hiện vật và tô lao dịch. Những dịp nhà chúa có ma chay, cưới xin, làm nhà mới, lễ tết sinh nhật… phải đến phục dịch và mang lễ vật theo quy định. Mặc dù các dân tộc này có tổ chức xã hội riêng nhưng họ vẫn phải phụ thuộc vào các cấp chính quyền của lãnh chúa như mọi người dân khác trong vùng. Các Lục Lùng cũng có sự phân biệt đối xử cao thấp khác nhau tùy theo địa vị kinh tế xã hội của từng dân tộc: Như người Nùng ngoài sản xuất nông nghiệp họ còn biết làm một số ngành nghề thủ công khác như rèn, mộc, giấy dó, nung vôi, làm hương, làm ngói… nên được đối xử như người Tày. Còn người Mông bị đối xử thấp kém hơn.
Các tầng lớp trên do bị phụ thuộc nên người lao động không được tự do sáng tạo, hưởng thụ thành quả lao động, không được tự do tư duy nên đã làm cho xã hội càng trì trệ hơn.
Hiểu được đặc điểm này, ta mới giải thích được tại sao trước đây, một số vùng ở Bảo Lạc, Đồng Văn cho đến những năm trước và một thời gian sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuy chế độ Quằng không còn tồn tại trên danh nghĩa nhưng nhiều gia đình vốn thuộc dòng họ Quằng xưa vẫn duy trì sự bóc lột về kinh tế và có ảnh hưởng mạnh mẽ trong nhân dân như mỗi khi trong bản xã có người được làm chức dịch nhưng vẫn phải đến xin ý kiến mới xong. Đến vụ gieo cấy nhân dân vẫn đến làm giúp Quằng, trai gái thành hôn vẫn mời Quằng đến chứng kiến, trong nhà có người chết vẫn phải báo cho Quằng biết, sau đó mới được đón tào, mo về lo liệu ma chay…[32].
Trong diễn trình lịch sử, xã hội truyền thống của các Quằng Mường vẫn được duy trì, có quan hệ chặt chẽ với định chế chính trị chung của quốc gia, giống như việc Thổ tù mặc dầu mang chức tước của triều đình nhưng vẫn thế tập dòng họ, bộ phận chức dịch vẫn mang tên gọi truyền thống thực hiện những chức năng thống trị của Quằng, nhưng lại nằm trong một hệ thống chính quyền thống nhất từ trung ương cho đến địa phương. Lãnh thổ địa phương của các cấp hành chính cũng thay đổi theo sự phân chia lại của các vương triều, đơn vị mường trước đây có thể nằm trong một xã, cùng chung trong một tổng hay bị phân chia lệ thuộc vào nhiều xã, nhiều tổng khác nhau.
Các vương triều phong kiến Việt Nam ý thức được vị trí chiến lược xung yếu của miền biên giới phía Bắc, đã thi hành nhiều chính sách dân tộc – miền núi thích hợp và có hiệu quả. Chính sách nhu viễn cương được sử dụng như là quốc sách hàng đầu, việc cử các quan lại miền xuôi lên trấn trị miền núi được thực hiện từ thời Lý – Trần, được mở rộng dưới thời Lê Sơ và Nguyễn, nhất là khi Minh Mệnh thực hiện chính sách Cải thổ quy lưu. Kết quả đã góp phần tích cực trong sự nghiệp củng cố quốc gia thống nhất, giữ vững biên cương lãnh thổ, đẩy lùi những thế lực cát cứ và can thiệp từ bên ngoài.
Thực hiện quyền quản lý đất nước, các vương triều phong kiến Việt Nam đã thiết lập định chế chính trị nhà nước trên địa bàn lãnh thổ miền núi. Các đơn vị hành chính cấp Châu hay còn gọi là Châu Mường có thể đã được thiết lập trên cơ sở lãnh thổ của một số mường vốn có quan hệ lệ thuộc, chi phối trước đó, Quản chúa hay Chúa công lãnh luôn chức Tri châu. Lãnh thổ của từng Mường có thể đã chuyển thành các đơn vị tổng hoặc xã, các Quằng Mường kiêm luôn chức tổng trưởng, xã trưởng ở địa phương[33].
Từ những năm 30 của thế kỷ trước, khi bình luận về chế độ Thổ ty, Nguyễn Văn Huyên trong loạt ghi chép về Những giống người và chế độ Thổ ty ở châu Chiêm Hóa đã viết: “Không dám nói rằng chế độ Thổ ty sẽ vĩnh viễn ở đất này, thời cái chế độ ấy không phải là không hay. Vì sự tín ngưỡng đó đã nảy mầm mọc rễ trên 5 thế kỷ nay, lại có cái tính cách tôn giáo lạ lùng ấy nữa nên một vị quan Thổ ty ở trong mắt dân gian như một Thần sốngchứ không phải là một quyền luật sống ở con mắt dân hạt khác. Họ phục tùng một cáchsâu xa mật thiết có tỏ lòng kính cẩn ở trong chứ không phải do luật lệ xã giao bắt buộc gì. Bởi sự tín ngưỡng của dân đối với mình là thế nên quan Thổ ty bao giờ cũng coi dân mình như con em trong một tộc họ vậy. Quan dân tương ái tương thân như thế, cho nên việc hành chính rất dễ dàng […].
Nói tóm lại, theo chế độ Thổ ty, miễn người cầm quyền có đủ tư cách làm cha mẹ dân, trên giúp Chính phủ, dưới mưu hạnh phúc cho con em trong hạt, thì cái lòng tín ngưỡng Thổ ty ấy ở trong óc người dân Chiêm Hóa không bao giờ kém đi hay mất đi được.
Đó là theo tâm lý dân tình người bản hạt, thuật – giả có mấy lời suy đoán thế thôi còn sự thay đổi chế độ đó kết quả thế nào, thì không sao nói quyết được, đó là một điều bí mật của tương lai sẽ giải đáp cho ta nhưng cứ theo lẽ thông thường thì ở đời không gì là tuyệt đối”[34].
II . KHU VỰC NGƯỜI MÔNG – DAO
Cách ngày nay trên 300 năm, vào cuối thời Minh, đầu đời Thanh, hàng trăm gia đình họ Lù, họ Giàng của người Mông từ Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc), thoát ra ngoài phong trào chống Cải tù quy lưu (xóa bỏ Tù trưởng người Mông, đưa lưu quan người Hán đến cai tri) đến định cư ở các vùng đất ngày nay thuộc các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc. Độ một thế kỷ sau đó, nhiều người Mông thuộc các dòng họ Vàng, họ Lý di chuyển tới Đồng Văn; những người khác cũng thuộc họ Vàng hoặc họ Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ thì đến khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà ngày nay thuộc Lào Cai hoặc đi xa hơn, đến tận Lai Châu, Sơn La. Sau khi phong trào Thái Bình Thiên quốc (1840-1868) thất bại, hàng vạn người Mông cũng từ các địa phương trên của Trung Quốc tràn đến hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta. Từ đó về sau này, người Mông vẫn lẻ tẻ di cư vào Việt Nam theo ngả Đồng Văn. Chính vì vậy, với sự có mặt của khoảng 800.000 người trên toàn lãnh thổ, thì Hà Giang đã có tới trên 180.000 người Mông, đông nhất tỉnh với các khu vực có mật độ cao như Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ.
Xếnh, Xông tức dòng họ là hạt nhân căn bản của cấu trúc xã hội cổ truyền trong dân tộc Mông. Trên quy mô rộng lớn, người Mông quan niệm tất cả những người cùng mang một họ, dù cư trú ở bất kỳ đâu là chung một nguồn, cùng ma, đều được sinh ra từ một ông tổ. Ngoài tính cố kết rộng lớn này, họ còn có thể nhận ra nhau qua những kiêng kỵ trong ăn uống, qua nghi thức cúng ma khô, cúng ma buồng, cách đặt người chết, hướng mộ và cách làm ma tươi.
Người Mông coi Ôu Thờu – Trưởng họ là linh hồn của tất cả mọi thành viên trong dòng họ vì ngoài khả năng tổ chức, Trưởng họ phải là người giầu kinh nghiệm trong sản xuất, quan tâm đến đời sống và bảo vệ lợi ích cho dòng họ, truyền dạy lệ tục cho con cháu. Với trách nhiệm duy trì mọi sinh hoạt trong dòng họ (tổ chức khai hoang, hướng dẫn việc hiếu hỉ, làm nhà mới), giao tiếp với bên ngoài và chính quyền, dàn xếp tranh chấp, tổ chức cúng lễ đầu năm v.v..
Phâux – Bà cô cũng có vị trí quan trọng trong dòng họ của người Mông khi ra những quyết định thay đổi tập quán pháp còn Cho đáng khô – Người cầm quyền ma quyền khách đảm nhiệm những việc liên quan đến tôn giáo và đối ngoại.
Trưởng họ – Bà cô – Người cầm quyền ma quyền khách tạo nên bộ máy tự quản hữu hiệu trong xã hội truyền thống của người Mông.
Người Mông thường cư trú theo dòng họ nên nhiều bản chỉ có một dòng họ. Ở các bản các dòng họ cư trú xen kẽ, dòng họ nào có công khai phá, lập bản thường có quyền lợi lớn hơn như được cử người làm Trưởng bản, được chủ trì lễ cúng đuổi ma, cúng thổ thần. Người cùng dòng họ có thể chết trong nhà của nhau, giúp nhau mưu sinh hay khi gặp hoạn nạn, lúc làm nhà. Tính cố kết chặt chẽ thông qua quan hệ huyết thống, những mối liên hệ và tín ngưỡng do đó dòng họ và vai trò Trưởng họ đối với người Mông là vô cùng hệ trọng.
Người Mông tụ cư thành từng Jaol – tức là Bản, trung bình có từ 10 đến 30 nóc nhà, bố trí từ lưng chừng lên đến đỉnh núi. Tuy không quy định về hướng nhưng người Mông kiêng không quay lưng nhà ra suối, khe hoặc vực sâu. Thông thường, các ngôi nhà thường dựa lưng vào núi, xung quanh có hàng rào đá bao quanh.
Ranh giới giữa các Jaol có thể là một bìa rừng, một ngọn núi hay một con suối, một cây lớn, tuy mang tính ước lệ nhiều hơn nhưng được duy trì và công nhận. Đất đai, rừng rú, ruộng nương, nguồn nước, muông thú trong phạm vi ranh giới, Jaol có quyền sở hữu, quản lý, bảo vệ và sử dụng.
Đứng đầu Jaol là Chư dò (Chư dinh) – Trưởng bản, người đứng ra thực hiện tập quán pháp và đôn đốc mọi người thực hiện. Chư dò thường được bầu từ những dòng họ lớn, dòng họ cư trú lâu đời tại địa bàn. Cũng có những nơi chức vụ này luân phiên giao cho Ôu Thờu của các dòng họ với điều kiện người này giỏi ứng xử, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, miệng nói tay làm. Những điều kiện chọn lọc khắt khe kể trên nhằm giúp cho dân trong Jaol tìm được đúng người giỏi giang trong việc điều hành công việc chung, giữ gìn an ninh, phân phối công bằng đất đai, giải quyết tốt các xung đột nảy sinh, xử phạt nghiêm minh các sai phạm. Ôu Thờu được miễn đóng thuế thuốc phiện, chỉ phải đóng một phần thuế nông nghiệp, miễn phu dịch.
  Do sự có mặt ở Việt Nam muộn, lại chia thành nhiều đợt, lúc thì ồ ạt, khi thì lẻ tẻ cộng với lối cư trú phần lớn xen kẽ, sản xuất phần nhiều theo lối du canh, du cư cho nên trong xã hội người Mông ở Hà Giang không có thiết chế chính trị riêng mà phụ thuộc hoặc đúng hơn là bị cuốn hút vào chế độ Quằng của người Tày, do đó chỉ nảy sinh ra tầng lớp Mã phải, Seo phải ở cấp Jaol mà thôi.
Mã phải – Mo phìa là người đứng đầu và quản lý một Jaol, được người tiền nhiệm chọn lựa hoặc do dân chúng bầu lên với tiêu chuẩn phải là người giầu có, được mọi người tín nhiệm. Họ có thể giữ chức vụ này đến trọn đời nếu làm tốt, còn không sẽ bị thay thế. Tầm kiểm soát và quyền hạn của Mã phải bao gồm việc quản lý dân cư, đất đai, thuế khóa, trật tự trị an. Khi mỗi gia đình trong Jaol có việc hiếu, hỷ, cúng tế, đều phải trình báo và hầu như phải có sự chứng kiến, chủ trì của Mã phải. Mã phải được sử dụng con dấu.
Seo phải – So phìa là những người giúp việc cho Mã Phải ở các lĩnh vực như liên lạc, truyền đạt, triệu tập dân chúng khi có những công việc lớn. Thông thường mỗi Mã phải có 2 – 3 Seo phải là trợ thủ.
Mã phải, Seo phải vẫn trực tiếp tham gia công việc nương rẫy với gia đình.
Giữa thế kỷ XIX, thế lực của người Mông ở Hà Giang lớn mạnh đến mức dần dần thoát khỏi sự kiềm tỏa của chế độ Quằng. Ở cấp liên Jaol – tương đương với cấp Mường của người Tày, người Mông có người đứng đầu với chức danh Thống lý. Xã hội cũng phân chia thành giai cấp một cách rõ rệt theo ranh giới huyết thống. Thống lý với danh nghĩa là kẻ sở hữu tối cao đã nắm giữ toàn bộ ruộng đất và trực tiếp sở hữu số ruộng đất tốt nhất. Nhân dân trong vùng phải đến làm không công trong việc canh tác đất đai, cày cấy, thu hoạch và phục vụ việc nhà cho Thống lý, Mã phải. Kể từ đây Thống lý, Mã phải hợp thành tầng lớp Thổ ty cai quản trực tiếp về kinh tế, con người và phân công lao động xã hội, phân bổ lực lượng trai tráng tham gia vào các đội vũ trang. Nhằm triệt để hưởng thụ các đặc quyền, đặc lợi, tầng lớp Thổ ty người Mông đã sử dụng khá nhiều Tỷ súng cho các công việc tạp dịch như chăn ngựa, đun nước, từ 5 đến 10 Thúc dung (dân dõng) thay phiên nhau bảo vệ. Khi gia đình Thổ ty có việc hiếu, ngoài việc được thổi kèn, đánh trống, mổ nhiều gia súc, gia cầm họ còn được mọi người nhà cắt cử người đến phục vụ.
Cuộc thiên di của người Mông đến giữa thế kỷ XIX tại Hà Giang cũng đánh dấu một cột mốc quan trọng khác – đó là sự hình thành những Thổ ty, được ghi nhận là những Vua Mèo trong các dòng họ Vàng, họ Dương, họ Ma, họ Đào… Ở mỗi dòng họ này, ngoài những tập tục riêng, những thói quen thờ cúng riêng lại có những thủ lĩnh riêng nổi lên nhận trách nhiệm bảo vệ sự an nguy và sức sống của cả dòng họ, trong đó hầu hết xuất thân từ những gia đình danh giá, giàu có nhất trong dòng họ.
Ở người Mông, trong một họ lại chia ra từng dòng khác nhau. Để nhận biết được điều này phải thông qua một số tập tục riêng của từng họ, từng dòng. Chẳng hạn trong họ Vàng, có dòng cúng tổ tiên 33 bát (mâm cỗ cúng phải có 33 bát), dòng cúng tổ tiên 13 bát, dòng làm ma cho người chết bằng chòi cỏ gianh để che quan tài, dòng làm chòi bằng cành cây, dòng ăn nhạt. Họ Mã thì chôn người chết nằm ngang, họ Đào và một số họ khác phải chôn dọc. Trong họ Dương, có dòng thì kiêng ăn tim động vật, có dòng lại kiêng ăn lá lách. Những tập quán pháp kể trên đã khiến cho người Mông vừa gắn bó nhưng cũng vừa tách biệt nhau. Những người đứng đầu dòng họ có quyền năng rất lớn, hình thành nên một bộ phận chỉ đạo rồi từ đó chọn ra một thủ lĩnh tối cao thông qua sự nhất trí của cộng đồng mà ta quen gọi là Vua Mèo.
Vào thời ấy, Thổ ty Dương Tụ Nghĩa vốn xuất thân từ một gia đình danh giá ở Quý Châu (Trung Quốc), khi tới Đồng Văn, Mèo Vạc, gia tộc họ Dương này có nhiều nương thuốc phiện và nắm giữ quyền lực lớn nhất trong vùng. Đúng vào thời điểm này, người Pháp nổ súng đánh chiếm Việt Nam còn triều đình Mãn Thanh cũng cho quân tràn đến Hà Giang nhằm tiêu diệt các nhóm người Mông vì lo sợ mối nguy hiểm vùng biên giới. Tại Đồng Văn, sau khi thủ lĩnh Vừ Phán Lùng bị sát hại, Vàng Dí Tủa được dân chúng cử lên thay thế nhưng rồi ông cũng bị bệnh, sớm qua đời. Kể từ đây, sự nghiệp được trao vào tay Vàng Dúng Lùng.
Chiếm được Hà Giang từ năm 1887, người Pháp lập ra ba đồn Bạch Đích, Yên Minh và Đường Thượng nhưng vẫn phải tìm mọi cách dựa vào tầng lớp Thổ ty ở địa phương để củng cố nền thống trị của mình, đồng thời chia ra:
– Khu vực phía bắc, ngày nay thuộc huyện Mèo Vạc giao cho Thổ ty Dương Tụ Nghĩa cai quản.
– Khu vực giữa, ngày nay là huyện Đồng Văn giao cho Thổ ty Nguyễn Chánh Quay quản lý.
– Khu vực kế tiếp từ Sà Phìn đến Phố Bảng do Thổ ty Vàng Dúng Lùng chiếm cứ.
– Khu vực phía nam, ngày nay là huyện Yên Ninh nằm trong tay Thổ ty Nguyễn Chánh Tư và Nguyễn Doãn Quý.
Ngoài ra, tại khu vực đồn Đường Thượng, Thổ ty Đào Văn Át được giao làm Bang tá trong một số năm.
Mặc dù đã có sự thỏa hiệp với các thủ lĩnh địa phương nhưng cuộc đấu tranh chống Pháp vẫn tiếp diễn. Nghĩa quân người Mông dưới sự chỉ huy của Sùng Mì Chảng đã lập căn cứ ở vùng núi Tú Sán, từ năm 1903 đến năm 1905 đã gây cho Pháp nhiều thảm bại nhưng cuối cùng bị đánh dẹp do âm mưu cài cắm, mua chuộc của đối phương.
Được Pháp làm hậu thuẫn, Thổ ty Dương Tụ Nghĩa không ngừng thâu tóm quyền lực, tự nhận là Vua Mèo, cho thuê thợ từ châu Vân Sơn (Vân Nam – Trung Quốc) xây dựng tòa lâu đài đá Sùng Chà để gây thanh thế.
Trong khi đó, Vàng Dúng Lùng với đội nghĩa binh hươu nai sau khi tiêu diệt hết tàn tích của Thanh phỉ, lại tiếp tục giương cao ngọn cờ kháng Pháp và âm mưu lấn chiếm của nhà Thanh. Suốt 9 năm trời, Thổ ty Vàng Dúng Lùng đã dựa vào địa hình hiểm trở liên tục bẻ gẫy những cuộc tấn công của binh lính Pháp lên Đồng Văn. Năm 1909, đứng trước một binh lực lớn của Pháp, Vàng Dúng Lùng lui vào rừng núi, tiếp tục mộ binh chiến đấu. Với chiến thắng vang dội tháng 10-1913 Vàng Dúng Lùng buộc Pháp phải ký hòa ước, chấp nhận triệt thoái lực lượng quân sự ra khỏi Đồng Văn, trả địa phương cho người Mông cai quản thông qua chế độ tự trị. Thắng lợi lớn lao này đã khiến cho uy danh của Vàng Dúng Lùng lên cao, đánh bạt ảnh hưởng quyền lực của Dương Tụ Nghĩa và con trai ông ta là Dương Trung Nhân kế vị sau này:
Vàng Dúng Lùng sinh ra trong một gia đình nghèo thuộc chi út (chi thứ 6) của họ Vàng dòng 33 bát, mồ côi cha từ nhỏ. Khác hẳn với người anh là Vàng Trá Pò vốn hiền lành và có phần nhút nhát, Vàng Dúng Lùng tính cách khá mạnh mẽ, cương cường mặc dù phải sống lang thang nay đây, mai đó và trong cảnh đội quân Thanh phỉ dưới trướng Hà Quốc Trường ngày đêm cướp bóc, tàn sát khắp vùng Hà Giang. Có mặt trong đội nghĩa binh của Vừ Phán Lùng rồi Vàng Dí Tủa – người họ Vàng chi thứ 4 dòng 33 bát, Vàng Dúng Lùng sớm trở thành một chỉ huy tài giỏi và cơ mưu, xứng đáng tiếp tục đảm đương sự nghiệp dang dở do 2 thủ lĩnh để lại với tên gọi Vương Chính Đức trong giao thiệp với người Pháp và dân chúng sau này. Vàng Dúng Lùng được người Mông tôn làm Chiv Vax – Chính Vương, nhà Nguyễn phong tặng Biên chính khả phong Đại thần.
Được Bách trưởng Cư Trống Lù mách nước, Vàng Dúng Lùng đã tìm được nơi đắc địa để dựng dinh lũy đảm bảo được các yêu cầu về công và thủ ở Sà Phìn. Với thế đất kim quy, xung quanh là những cung núi bao bọc đã tạo ra sự sâu rễ, vững bền mãi mãi. Đầu tiên là ngôi nhà trình tường, mái ngói mọc lên. Sau khi ngôi trung dinh hoàn thành, các ngôi nhà khác tiếp tục được xây dựng kéo dài từ năm 1923 đến năm 1926. Bao quanh khu dinh thự là các bức tường cao 2,5 – 3m xây bằng đá phiến và xi măng, dày từ 60-80cm, có hai chòi gác trổ lỗ châu mai phía sau. Nhìn trên tổng thể, toàn bộ khu dinh thự khép kín trong khuôn viên 46´22m, chia làm 3 cấp; phù hợp với đối tượng sử dụng, sinh hoạt. Các phòng trong cấp nhà đầu tiên được dành để tiếp các dòng họ, dân chúng, binh dõng từ các nơi tụ họp, ăn uống, nghỉ ngơi. Cấp nhà thứ hai cao hơn, tầng dưới dùng làm chỗ ở cho các bà vợ, con cái, người hầu hạ còn tầng trên dùng để tiếp quan lại Pháp – Nam. Cấp nhà thứ 3 cao hơn đến 10 mét so với mặt bằng trước cổng là nơi Vàng Dúng Lùng ngồi làm việc, bàn việc cơ mật với bộ tham mưu.
Vật liệu chính tham gia vào việc tạo ra khu dinh thự này là đá xanh, gỗ thông, gỗ pơmu, ngói nung già được chạm trổ tinh vi. Dinh thự được chia thành 13 khu: cổng ngoài, nhà cổng, tiền dinh, trung dinh, hậu dinh, trạm gác, nhà vệ sinh, chuồng ngựa, chuồng bò, sân lát đá, nhà bếp, nhà kho, nhà cánh, bể nước lớn do hàng trăm thợ giỏi tuyển từ Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc) và trong người Mông. Khi đó, ngoài Vàng Dúng Lùng, còn có họ Ngô ở Lùng Chá Tổng, họ Ngô ở Cẩu Phì Lũng và họ Cống người Pu Péo ở Phố Là cũng dựng nên nhiều dinh thự cao đẹp. Bên cạnh đó là những ngôi nhà khang trang, mái lợp ngói hoặc ván gỗ tạo nên phố cổ Đồng Văn ngày nay, cũng được xây dựng vào khoảng thời gian này. Tất cả đều nhờ cây thuốc phiện mà các Thổ ty giầu lên. Vào đầu thế kỷ XX, tổ chức xã hội cổ truyền của người Mông hầu như được tăng cường để cấu trúc lại. Người Mông đã được tham gia vào bộ máy quản lý hành chính đến cấp châu. Ở những châu lớn như Đồng Văn (nay bao gồm các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh và một phần huyện Quản Bạ), người Pháp chia làm 2 phân khu bắc và nam. Nếu như ở cấp châu, bên cạnh viên Đại lý người Pháp là một Thống lý người Mông, quyền hạn ngang Tri châu thì ở Phân khu bắc và Phân khu nam, bên cạnh người Pháp là các Thống lý người Mông làm nhiệm vụ của Bang tá. Để được cử làm Tri châu, Bang tá – những người này phải có thời gian cộng tác với người Pháp.
Từ cấp tổng trở xuống, người Pháp không tham gia vào bộ máy quản lý hành chính nữa. Người Mông tự đảm nhiệm các chức trách Tổng giáp, Tổng đoàn ở cấp tổng; Mã phải (binh thầu), Pừ chá ở cấp bản; Seo phài, Xì chá ở cấp xóm và Lèng Tháu – Ban cháng ở cụm các hộ gia đình.
Sơ đồ bộ máy quản lý hành chính của người Mông thời Pháp thuộc
Cấu trúc bộ máy quản lý vùng người Mông trong thời kỳ phong kiến:
1.png
Cấu trúc bộ máy hành chính vùng người Mông dưới thời Pháp thuộc:
2.png
Như vậy, bộ máy quản lý ở vùng người Mông đã được Pháp bổ sung nhưng về cơ bản vẫn giữ nguyên mô hình quản lý truyền thống để tiện lợi cho việc củng cố ách thống trị của chúng[35].
Cuộc sống đa số người Mông hầu như chẳng có gì thay đổi, mặc dù địa vị của tầng lớp Thổ ty, Mã phải trong dân tộc mình được cải thiện nhiều. Họ vẫn phải nộp thuế (thuế họ, thuế nương rẫy, thuế chợ, thuế thuốc phiện), đi phu, đi lính và phục dịch cho các gia đình chức dịch trong việc cày cấy, gặt hái, xây dựng dinh thự. Chẳng may, trong cuộc sống hàng ngày, người dân mắc tội hay phạm phải lỗi lầm gì, họ cũng phải biện bạc trắng, gà, lợn, thuốc phiện đến cầu cứu Mã phải. Thậm chí, để được khai phá nương rẫy, kiện cáo lẫn nhau hay săn được thú quý trong phạm vi địa phận họ cũng phải biếu xén. Trong nội bộ xã hội người Mông ở Hà Giang, nhiều Thổ ty được dân yêu quý nhưng cũng không ít người luôn luôn tàn bạo với đồng tộc của mình, điển hình như Sùng Chúa Đà.
Sùng Chúa Đà sinh ra ở đất Đường Thượng, tên thật là Chứ Đà, người mà Trung tá Bonyfacy – kẻ đã từng dẫn quân truy đuổi Đề Thám ở Yên Thế những năm cuối cùng khi đang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Khố đỏ Bắc Kỳ số 1, trong một đợt khảo sát vùng Đại Miện, Tiểu Miện, Yên Minh, Đường Thượng ở Hà Giang với tư cách là Chỉ huy trưởng Đạo quan binh số 3 đã xác nhận: “Vua Mèo Sùng Chứ Đà từ năm 1863 đã xây dựng ở đầu thung lũng Khuây Booc một trại tập trung được bao học bằng các bức tường đá có trổ nhiều lỗ châu mai, kéo dài tới tận đèo Pia Nan. Vua Mèo đã từng đốt phá, cướp bóc Mường Chà, sát hại hàng chục người Thổ”.
Sùng Chứ Đà vốn là một phù thủy. Sau khi trở thành thủ lĩnh tối cao trong vùng, ông ta càng tận dụng những thủ thuật phù phép của mình để khuất phục dân chúng, nắm trong tay những cánh đồng rộng lớn và bằng phẳng ở khu Đường Thương. Cây cột đá ông ta cho dựng lên trong dinh thự của mình được dùng để trừng trị người chống đối đến nay vẫn còn.
Cùng với sự hiện diện của Đạo quan binh thứ 3, Hà Giang bị người Pháp thống trị theo lối quân quản thì bộ máy hành chính do người Mông điều hành cũng tuân thủ theo sự điều hành đó. Tổ chức dân dõng được phiên chế thành Tiểu đội (7 người), Trung đội (20 – 40 người), Đại đội (3 Trung đội), Tiểu đoàn (10 Đại đội). Mã phải được lập Trung đội, tuyển trong số trai tráng từ 18 tuổi trở lên. Giúp việc cho Mã phải là một Xỳ tra lo về giáo huấn và nắm về tư tưởng để báo cáo lại cho Bang tá. Ngoài việc được trang bị vũ khí, dân dõng còn thường xuyên được huấn luyện để đảm đương việc bảo đảm nhiệm vụ trị an ở địa phương.
Trở thành vua Mèo, Vàng Dúng Lùng chính thức đổi gọi là Vương Chính Đức. Khi quyền lực của ông ta ngày càng trở nên mạnh mẽ thì cũng là lúc gia tộc của Dương Tụ Nghĩa ngày càng suy yếu. Để cứu vãn tình thế, không còn cách nào khác là gia tộc họ Dương phải kêu gọi người Mông lựa chọn chính thức thủ lĩnh cho mình. Tuy nhiên, tính toán của Dương Tụ Nghĩa đã sai lầm vì đa số người Mông vẫn tôn Vương Chính là Vua Mèo, chính điều này đã tạo thêm độ thâm thù giữa hai dòng họ. Cuộc chiến quyền lực giữa cha con Dương Tụ Nghĩa – Dương Trung Nhân và Vương Chính Đức – Vương Chí Sình nổ ra.
Dương Trung Nhân sinh năm 1912 còn Vương Chí Sinh, lúc nhỏ được gọi là Vàng Seo Lử, sinh năm 1885, giỏi cả tiếng Pháp và tiếng Hán, có mối quan hệ khá rộng rãi. Khi Vương Chính Đức già yếu và bị Pháp bắt, Vương Chí Sình đứng ra chèo lái nhà họ Vương, dân chúng vẫn coi như Vua Mèo đệ nhị.
Dương Trung Nhân được sự hậu thuẫn của người Pháp vì họ sớm nhận ra sự bất phục tùng của gia tộc họ Vương Sà Phìn. Nhìn rõ dã tâm của người Pháp trong việc muốn nuốt trọn khu vực Đồng Văn, Vương Chính Đức – Vương Chí Sình bí mật tái vũ trang. Đầu những năm 30 của thế kỷ trước, Vương Chí Sình được phụ thân giao quyền mua sắm vũ khí, ngựa chiến. Đầu năm 1936, người Pháp ráo riết mộ lính, xây đồn ở Đồng Văn. Với quyết tâm liên thủ hạ vi cường, Vương Chí Sình đã chỉ huy dân dõng tập kích đoàn tiếp vận của Pháp tại đèo Lao Va Chải (nay thuộc Yên Minh), diệt gọn địch quân, thu nhiều chiến lợi phẩm. Người Pháp vờ làm ngơ rồi tìm cách lừa bắt Vương Chính Đức và nhiều thủ lĩnh người Mông giam cầm tại Hà Nội. Đứng trước tình thế đó, Vương Chí Sình phải dùng cách tạm thời hòa hoãn, bí mật về Hà Nội tìm cách cứu cha. Giữa năm 1938, Vương Chính Đức và các thủ lĩnh người Mông được tự do. Hai năm sau, cuộc giao tranh giữa gia tộc họ Dương và gia tộc họ Vương diễn ra ác liệt. Rốt cuộc họ Dương tổn hao nhiều lực lượng, tiền của và thua cuộc. Dương Trung Nhân phải đưa cả gia quyến chuyển về Hà Nội sống một thời gian, sau đó sang Mỹ.
Khi Nhật vào Đông Dương, nghe theo lời con rể là Mã Học Văn, Vương Chí Sình đã quyết định bất hợp tác. Tháng 3-1945 Nhật hất cẳng Pháp, tiến lên Hà Giang. Theo kế sách của Mã Học Văn, Vương Chí Sình tự mình dẫn một trung đội dân dõng chốt chặn ở Lao Va Chải, đánh tan đội quân tinh nhuệ của Nhật khiến chúng phải tăng cường viện binh để chiếm bằng được Phố Bảng. Chúng tiếp tục bị chặn đánh và thiệt hại lớn.
 Người Dao ở Hà Giang tập trung tại các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang, Hoàng Su Phì, Bắc Mê, Yên Minh, Quản Bạ, Xín Mần, Mèo Vạc, Đồng Văn và thành phố Hà Giang, chia thành 4 nhóm là Dao Đỏ (Đại Bản), Dao Áo Dài (Dao Chàm), Dao Tiền (Tiểu Bản) và Dao Quần Trắng. Nhóm Dao Quần Trắng vào Việt Nam từ thời nhà Trần, thế kỷ XIII.
Quần tụ với nhau thành làng (người Dao Đỏ gọi là Lang, Lổng; người Dao Áo Dài gọi làGiắng, Giằng), tùy theo điều kiện tự nhiên từ vài ba hộ cho đến 40-50, thậm chí đến hàng trăm hộ, như ở Tham Vê, xã Cao Bồ, huyện Vị Xuyên chẳng hạn. Đứng đầu mỗi làng như thế là một vị Chẩu con (Dao Đỏ), Giằng Châu (Dao Áo Dài) được bầu ra trong giới trai làng từ 18 tuổi trở lên, nhiệm kỳ khoảng 1 năm. Để được giữ nhiệm vụ này, người được bầu phải có uy tín, công tâm, am hiểu tập tục, nắm vững các mối quan hệ họ hàng, biết cúng bái để chủ trì các nghi lễ của làng, quản lý các nguồn nước và tài nguyên, chăm lo đến cộng đồng theo tập quán pháp, biết dựa vào già làng, trưởng họ, các chủ miếu. Sau này, người Pháp gọi là Quan bản. Xã hội cổ truyền của người Dao chì có vậy và đơn giản hơn các dân tộc khác nhiều lần.
Chú thích:
[1] Hoàng Xuân Hãn. Lý thường Kiệt – lịch sử, ngoại giao và tôn giáo của triều Lý. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr.98.
[2] Nomoki Shiro – Gia đình các vua nhà Lý và sự xuất hiện của Vương triều phụ hệ ở Việt Nam, in trong Các nhà Việt Nam học nước ngoài viết về Việt Nam. Nxb. TG, Hà Nội, 2002, tập I, tr.176-177.
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tập một, tr.288.
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006; tập hai,tr.862.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006; tập ba,tr.189.
[6] Đại Nam thực lục. Chính biên, tập IV, tr.92, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2007.
[7] Sđd, tập IV, tr.92.
[8] Sđd, tập IV, tr.92-93.
[9] Sđd, tập IV, tr.93
[10] Sđd, tập 4, tr.94.
[11] Sđd, tập 4, tr.94.
[12] Hồ Bạch Thảo. Vị trí chiến lược vùng đất Hà Giang qua đánh giá của Nguyễn Công Trứ.vanchuongviet.org.
[13] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.202.
[14] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.219.
[15] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.319.
[16] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.319.
[17] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.320.
[18] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.1007.
[19] Đặng Nghiêm Vạn. Văn hóa Việt Nam đa sắc tộc. trieuxuan.info.
[20] Nguyễn Văn Huyên. Những giống người và chế độ Thổ ty ở châu Chiêm Hóa. Báo Đông Pháp, 27-1-1934.
[21] Đàm Thị Uyên. Tầng lớp Thổ ty người Tày ở Cao Bằng đầu thế kỷ XX. Nghiên cứu lịch sử, số 4 (360)/2006.
[22] Nguyễn Tuấn Liêu. Mấy nét về tình hình và nhận xét về chế độ Quằng trong dân tộc Tày ở Hà Giang. Nghiên cứu lịch sử số 44/1962.
[23] Đặng Nghiêm Vạn, Sđd, trieuxuan.info.
[24] Nguyễn Tuấn Liêu. Sđd.
[25] Đàm Thị Uyên. Sđd.
[26] Nguyễn Tuấn Liêu. Sđd.
[27] Đàm Thị Uyên, Sđd.
[28] Đặng Nghiêm Vạn. Sđd. Trieuxuan.info.
[29] Đàm Thị Uyên. Sđd.
[30] Đàm Thị Uyên. Sđd.
[31] Nguyễn Tuấn Liêu. Sđd.
[32] Đàm Thị Uyên, Sđd.
[33] Đàm Thị Uyên, Sđd.
[34] Nguyễn Văn Huyên. Sđd. Báo Đông Pháp, 31-1-1934.
[35] Phùng Thị Sinh. Tổ chức xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn (Hà Giang) trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam. Đại học Thái Nguyên.

Chính sách miền núi của các triều đại phong kiến và hệ quả đối với đời sống xã hội Sơn La



Mienbac11
Khổng Đức Thiêm
1 . SƠN LA THỜI LÝ – TRẦN – LÊ
LSQSVNT4-DaiVietthoiTran
Đại Việt thời Trần
Năm 1009 Lý Công Uẩn lên ngôi, lập nên nhà Lý, dựng quốc đô ở Thăng Long để tạo lập một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của quốc gia Đại Việt. Ra đời ở khoảng cách về thời gian còn khá gần với thời kỳ đất nước bị các triều đại phong kiến Trung Hoa đô hộ, do đó nguy cơ đất nước dễ bị ngoại xâm phương Bắc đe dọa trở thành mối quan tâm thường trực của nhà Lý. Việc xây dựng mối quan hệ đặc biệt với các khu vực tập trung đông đảo các cộng đồng dân tộc thiểu số ở phía Bắc và Đông Bắc Đại Việt trở thành yêu cầu khẩn thiết, vì vùng biên viễn này có vị trí chiến lược trọng yếu trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Ở những nơi này, các thổ ty có thế lực rất lớn trong đời sống vật chất và tinh thần đối với các bộ tộc của họ. Chính sách Ky mi đã giúp cho mối ràng buộc bằng tình cảm thông qua các cuộc hôn nhân, trong đó các công chúa con gái các vua nhà Lý trở thành công cụ cho sách lược liên minh giữa nhà cầm quyền trung ương với các đại diện thế lực ở địa phương. Phương thức liên minh hôn nhân tỏ ra hữu hiệu khi nhiều thế hệ trong dòng họ Thân trên đất Châu Lang (nay là Bắc Giang) trở thành Phò mã lang như Thân Thừa Quý (con rể Lý Thái Tổ) Thân Thiệu Thái (chồng của công chú Bình Dương), Thân Cảnh Phúc (con trai của Thân Thiệu Thái,  chồng của công chúa Thiên Thành). Không chỉ có họ Thân, vua  Lý Anh Tông còn gả công chúa Thiên Cực cho Lạng Châu mục Hoài Trung hầu vào năm 1167, Khi Dương Cảnh Thông được cử làm Lạng Châu mục, ông cũng trở thành Phò mã lang.
Không chỉ có các con đẻ, một số em gái hoặc con gái nuôi của các vua nhà Lý cũng được tham gia vào các hoạt động chính trị này như trường hợp con gái nuôi của Lý Thánh Tông được gả cho họ Lê ở châu Chân Đặng, Kim Thành công chúa cưới Lê Tông Thuận là châu mục Phong Châu; Khâm Thánh công chúa, em gái vua Lý Nhân Tông cưới Hà Di Khánh, Hoa Dương công chúa cưới Hà Công Phụ đều là châu mục Vị Long, Quy Hoá; Trường Ninh công chúa cưới Hà Thiện Lãm là châu mục Thượng Oai,  Diệu Bình công chúa và Thiều Dung công chúa trở thành vợ của Dương Tự Minh, châu mục Phú Lương.
Khi ấy, khu vực Tây Bắc cũng có nhiều tộc người cư trú, tuy nhiên ở một khía cạnh nào đó, các tù trưởng ở đây chưa đủ lớn để cuốn hút sự quan tâm của triều đình trung ương và mặt khác, quốc gia láng giềng của Đại Việt chưa đủ mạnh để trở thành mối đe doạ xâm lăng đối với Đại Việt. Nhiều bộ lạc ở phía Tây Bắc còn tỏ ra thần phục, thường xuyên triều cống, nộp lễ vật hoặc cầu cứu các vua nhà Lý ra tay can thiệp. Mối lo đối với láng giềng không trở thành thường trực.
Củng cố chế độ trung ương tập quyền cách tốt nhất là nắm chắc các khu vực cư dân. Chính vì lẽ đó mà nhà Lý chia khu vực đồng bằng thành 5 cấp (lộ, phủ, huyện, hương, giáp) còn miền núi thành 4 cấp (đạo, châu, trại, động).
Đây là thời kỳ mà Quắn Tố mương ghi nhận về sự có mặt của người Thái Đen ở Mường Lò với các thủ lĩnh tạo Xuông, tạo Ngần, tạo Lò, Ta Đúc.
Tồn tại và phát triển rực rỡ trong khoảng hơn một thế kỷ, nhà Lý đã bắt đầu xuất hiện dấu hiệu thoái hoá và suy vong. Thiên tai, đói kém liên tục xảy ra. Đến cuối thế kỷ XII đồng hành với các cuộc nổi dậy của nông dân là sự trỗi dậy của các thế lực cát cứ ở các địa phương. Cuối cùng, thế lực của họ Trần thông qua giải pháp hôn nhân Trần Cảnh – Lý Chiêu Hoàng đã giành được ngôi báu, lập ra nhà Trần kéo dài trên 170 năm (1226-1400).
Khác với nhà Lý, ngay sau khi thiết lập vương triều chưa được bao lâu, nhà Trần đã phải dồn công sức, binh tráng để tiến hành 3 cuộc kháng chiến chống lại giặc Nguyên-Mông. Những giải pháp về kinh tế-xã hội, do đó phải tới tận cuối thế kỷ XIII mới được thực thi. Chính sách đoàn kết dân tộc đã mở rộng hơn, không chỉ tập trung vào các tù trưởng ở miền biên viễn phía Bắc hay Đông Bắc mà đã lan tới khu vực Tây Bắc rộng lớn và xa xôi. Triều đình đã thường xuyên cử quý tộc, quan lại có năng lực hoặc có danh tiếng, am hiểu phong tục tập quán các dân tộc thiểu số để lên trấn trị, phủ dụ dân chúng. Nhiều ông vua nhà Trần đã tiến xa hơn Long Môn – Long Thủy để khẳng định sức mạnh của chính quyền trung ương cũng như cương giới của quốc gia Đại Việt đang trên đường hưng thịnh. Chiến tranh và  các cuộc binh đao giữa chính quyền trung ương với các bộ tộc ở trong khu vực hầu như đã giảm thiểu. Các cuốn cổ sử xác nhận điều này:
– Năm 1280 (Thiệu Bảo, năm thứ 2, mùa đông, tháng 10), Trịnh Giác Mật[1] [có thể hiểu là Chiềng Giác Mật- thủ phủ của một châu người Thái nay thuộc Sơn La] ở đạo Đà Giang bắt tuân phục. Vua sai Chiêu văn vương Trần Nhật Duật coi đạo Đà Giang, ngầm đem quân thuộc hạ đến.
Khi tới trại, nhiều người dàn vây mấy chục lớp và đều cầm đao thương chĩa vào phía trong. Nhật Duật đi thẳng vào, trèo lên trại. Mật mời ông ngồi. Nhật Duật thạo biết tiếng nói và am hiểu phong tục của nhiều nước, cùng ăn bốc, uống bằng mũi với Mật. Người dân thích lắm. Khi Nhật Duật trở về, Mật đem gia thuộc đến doanh trại đầu hàng. Mọi người đều vui lòng kính phục vì không mất một mũi tên mà bình được Đà Giang. Đến khi về Kinh sư, [Nhật Duật] đem Mật và vợ con vào chầu, vua rất khen ngợi. Sau đó, vua cho Mật về nhà, giữ con ở lại kinh đô. Nhật Duật mến nuôi hết lòng, xin triều đình ban tước thượng phẩm và cho vào trông ao cá, sau cũng cho về nhà[2].
– Năm 1329 (Khai Thái, năm thứ 6, mùa đông), Ngưu Hống bất tuân phục triều đình, Thượng hoàng đi tuần thú đạo Đà Giang, (nay hầu hết thuộc Sơn La, Hòa Bình) đích thân đi đánh Ngưu Hống, sai Thiêm tri Nguyễn Trung Ngạn đi theo để biên soạn thực lục.
Thượng hoàng đến Mường Việt [tức Mường Vạt-Yên Châu], đóng quân lại, ban tên [cho đất ấy] là phủ Thái Bình; [ở đây] có suối Bác Tử, ban tên là suối Thanh Thủy. Trong chiến dịch này, Thượng hoàng đích thân chỉ huy, hiệu lệnh nghiêm minh, uy thanh vang dội (1).
– Năm 1337 (Khai Hựu, năm thứ 9, mùa thu, tháng 9), triều đình cử Hưng Hiếu vương tiến quân vào trại Trịnh Kỳ [Chiềng Kỳ], giết được tù trưởng Xa Phần của Ngưu Hống. Gia đồng là Phạm Ngải lập được chiến công, được cấp 5 phần suất ruộng.
– Năm 1399 (Kiến Tân, năm thứ 2, mùa thu, tháng 8), Nguyễn Nhữ Cái ở Đà Giang làm giấy bạc giả, chiêu dụ được hơn 1 vạn người nổi dậy ở vùng sông Đà, thế lực rất mạnh. Mãi đến tháng chạp năm ấy (1/1440), Hồ Quý Ly mới sai Nguyễn Bằng Cử đem quân đi đánh, mới dẹp yên.
Như một định mệnh, nhà Trần lại mất ngôi vào tay cha con Hồ Quý Ly trong hoàn cảnh thiên tai hoành hành, bão táp của các cuộc khởi nghĩa nổi lên dữ dội, giống như những gì đã xảy ra vào cuối thời Lý.
Hồ Quý Ly cướp ngôi vua lập nên nhà Hồ trong bối cảnh nền kinh tế của đất nước lâm vào tình trạng suy tàn, lòng người ly tán. Ở phía nam, Chiêm Thành luôn luôn đe dọa còn ở phía bắc, nhà Minh đang xúc tiến một cuộc xâm lược Đại Việt, liên tiếp đòi hỏi cung cấp lương thực cho quân Minh đang đóng gần biên giới; đòi người bị thiếu, tăng nhân, đàn bà xoa bóp. Khi ý đồ xâm lược trở thành cấp thiết, nhà Minh lại sai Nguyễn Toán, Từ Cá, Nguyễn Tông Đạo, Ngô Tín sang sứ và thăm hỏi thân thuộc, dặn mật rằng, nếu có quân phương Bắc sang thì dựng cờ vàng, ghi là thân thuộc của viên nội quan họ tên là mỗ, tất sẽ không bị giết hại[3].
Đất nước đã lùi xa nạn đao binh với phương Bắc hơn một thế kỷ. Các vương hầu và con cháu các công thần có công trong các cuộc kháng chiến trước đây ngày càng sa đọa trong sự giàu sang phú quý, chỉ chăm lo củng cố địa vị và thâu tóm những thành quả đấu tranh, xây dựng của nhân dân. Mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Nhân dân không còn động lực khi bị huy động vào lực lượng vũ trang, đi lao dịch, Vì vậy, cha con Hồ Quý Ly chỉ còn trông cậy vào thành cao, hào sâu và đã nhanh chóng thất bại trước kẻ thù xâm lược.
Chiếm được Đại Việt, tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 5( 7-1407) Minh Thái Tông ra Sắc dụ cho lập ty Chỉ huy sứ Giao Chỉ, đổi tên hầu hết các phủ, huyện  châu- trong đó có việc chuyểntrấn Giao Hưng  xuống thành châu Gia Hưng  lĩnh ba huyện Lung, Mông và Tứ Mang, xếp đặt bộ máy cai trị tuyển chọn từ người địa phương.
Tại huyện Tứ Mang [từ thời Lê đổi là Châu Mộc, nay là các huyện Mộc Châu, Vân Hồ và một phần huyện Đà Bắc] cựu Thổ quan Xa Miên được giao làm Tri huyện. Theo Minh Thực lục(Thái Tông, Q.179, tr.2a), vào ngày 20tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 16 ( 27-3-1418), con trai của Xa Miên là Xa Tam (tức Xa Khả Sâm) hoặc Xa Khả Tham trong sử Việt), sau khi giết chết Âu Dương Trí kẻ được nhà Minh cử đến làm Tri huyện Tứ Mang thay Xa Miên, đã dựng cờ khởi nghĩa khiến Tổng binh Lý Bân phải sai Đô đốc Phượng Chính đem nhiều binh tướng đi đánh dẹp. Nghĩa quân đã đẩy lyi được nhiều đợt tấn công của giặc Minh, giết chết Đô Chỉ  huy sứ Trần Nhữ Thạch, Thiên hộ Chu Đa Bổ nhưng chẳng may Xa ĐẠo- em trai của Xa Tam rơi vào tay địch, bị sát hại.
Diễn biến của cuộc khởi nghĩa được Minh Thực lục ghị nhận như sau:
“Trước đây viên cựu Thổ quan tri huyện Tứ Mang”, châu Gia Hưng là Xa Miên, có con Xa Tam làm phản, giết bọn Tri huyện được triều đình cử đến là Âu Dượng Trí. Quan Tổng  binh Phong  Thành hầu Lý Bân sai Đô đốc Đồng tri Phương Chính mang binh thảo phạt. Giặc cậy đông cự địch, các viên Thổ quan Đô Chỉ huy Trần Nhữ Thạch, Thiên hộ Chu Đa Bồ tử trận. Quan quân ra sức đánh bại giặc, bắt người em là Xa Đạo giết chết. Bọn Xa Tam trốn, nhưng núi rừng hiểm trở khí độc mới phát; quan quân lục soát không bắt được, bèn mang quân trở về và sai người chiêu dụ. Bân báo lên và xin thưởng tuất bọn Nhữ Thạch để khuyết khích quan sĩ. Được chấp nhận” [(Hồ Thạch Thảo (dịch và hiệu đính). Minh Thực lục. Quan hệ Trung Quốc- Việt Nam thế kỷ XIV-XVII, tập 2, Nxb Hà Nội, tr.51-52)].
Cùng với các cuộc khởi nghĩa Thổ Hoàng (Hương Khê-Hà Tĩnh), Lam Sơn (Thanh Hóa) và Áo Đỏ (Gia Hưng, Tuyên Hóa), cuộc khởi nghĩa do Xa Tam lãnh đạo đã gây cho quân xâm lược Minh nhiều đòn chí mạng. Trong Sắc dụ gửi Tổng binh Lý Bân đề ngày 10-5 năm Vĩnh Lạc thứ 18 (6-1420), Minh Thái Tông phải kêu lên:
“Bọn phản loạn Phan Liêu, Lê Lợi, Xa Tam, Nông Văn Lịch đến nay vẫn chưa bắt được, không biết việc binh đến khi nào mới  hết, dân đến lúc nào mới được yên; nên ngày đêm hết lòng trù hoạch phương lược, sớm diệt bọn giặc này, để khỏi phụ sự ủy nhiệm của Trẫm” [(Hồ Thạch Thảo (dịch và hiệu đính). Minh Thực lục. Quan hệ Trung Quốc- Việt Nam thế kỷ XIV-XVII, tập 2, Nxb Hà Nội, tr.81)].
Khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo bước vào giai đoạn toàn thắng thì tại Tứ Mang (Mường Xang), vào khoảng tháng 6/1427, thổ tù Xa Khả  Sâm đã đem lực lượng vũ trang của châu mường đến quy phụ. Lê Lợi đã trao cho Thổ tù Mường Xang chức Nhập nội tư không Đồng binh chương sự tri Đà Giang trấn thượng bạn, cho túi Kim ngư, tước Trụ Quốc Quan phục hầu, ban quốc tính họ Lê. Các con của ông như Xa Lộc được làm Kim ngô vệ Thượng tướng quân, tước Đại tri tự; Xa Khát, Xa Bàn, Xa Điển đều được làm Ngọc vệ Đại tướng quân, tước Ninh Tự.
Để bày tỏ lòng trung thành, Xa Khả Sâm đã dâng lên Lê Lợi 3 con voi cùng vòng vàng, vòng bạc, chiêng đồng. Lê Lợi cũng ban thưởng cho ông 20 tấm lụa, 10 con ngựa.
Sự kiện Xa Khả Sâm quy phục Lê Lợi đã tác động tới thổ tù châu Ninh Viễn là Đèo [Điêu] Cát Hãn- người đã đầu hàng nhà Minh khi quân xâm lược tràn đến vùng này. Tháng 10/1427, khi Chủ thư Thị sử được Lê Lợi phái đến tuyên dụ vỗ về châu Ninh Viễn, Đèo Cát Hãn đem quân trong châu đến hàng phục. Lê Lợi chấp nhận và cho tiếp tục cai quản công việc trong châu.
Mục tiêu đánh đổ ách thống trị của nhà Minh, giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước mà cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đề ra, đến cuối năm 1427 đã hoàn thành. Thủ lĩnh Lê Lợi trở thành Thái Tổ của nhà Lê, ngay từ đầu đã hướng tới mục tiêu là dùng hình luật để cai trị và bảo vệ sự vẹn toàn của lãnh thổ quốc gia.
Một trong những biện pháp quan trọng mà nhà Lê sử dụng trong buổi đầu là sắp xếp lại các đơn vị hành chính kể cả khu vực miền núi, sử dụng tầng lớp trên của các dân tộc, bổ nhiệm họ các chức như Đoàn luyện, Thủ ngự, Thổ tù người Thái là Xa Khả Tham (có sách viết là Sa Khả Sâm) được phong là Nhập nội tư không và các con ông được phong làm Đại tướng quân được ban quốc tính. Nhiều thổ tù khác có công trong kháng chiến hay chịu quy thuận, được phong những chức tước cao như Tư không, Bình chương sự, Thượng tướng quân. Đại tướng quân. Năm 1428, khi Lê Lợi chia nước làm 5 đạo và tổ chức lại bộ máy thống trị ở các châu, có đặt thêm các chức Tri châu, Đại tri châu dành riêng cho các thổ tù vùng biên viễn. Chính sách này tiếp tục được sử dụng trong các đời vua Lê về sau và tới thời Thánh Tông, nhiều thổ tù được phong đến tước Quận công.
Với bộ Luật Hồng Đức, vấn đề chính sách đối với các dân tộc thiểu số đã được xác định rõ ràng hơn. Qua những quy định của Luật Hồng Đức, nhà nước trung ương đã chú ý tới đặc điểm về phong tục tập quán, có cách ứng xử phù hợp. Điều 40 Luật Hồng Đức quy định: “Những người miền thượng du (vùng miền núi- dân tộc) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu thì theo luật mà định tội”. “Các quan tướng suý tại các phiên trấn đến những châu huyện ở trấn mình, sách nhiễu tiền tài của dân thì bị biếm ba bậc, phải bồi thường gấp đôi số tiền trả lại cho dân. Khi chiêu dụ dẹp yên dân Man Liêu mà tự tiện phá nhà cửa, lấy súc vật, tài sản của dân thì bị tội biếm hay bị đồ” (Điều 163). “Các quan quản giám các dân Man Liêu (tức các dân tộc thiểu số) tự ý giữ trông coi những vụ kiện trong hạt, riêng sai người nhà đem trát đi bắt người hoặc là ức hiếp người mà giam cầm, thì xử phạt 60 trượng và biếm 2 tư” (Điều 164).
Luật Hồng Đức cũng có những quy định cụ thể nhằm ngăn ngừa sự liên kết giữa quan hệ người Kinh và các thổ tù thiểu số, nhằm hạn chế sự gia tăng quyền lực của các thủ lĩnh ở khu vực này. điều 51 ghi: “Các quan ty mà cùng với những người tù trưởng ở nơi biên trấn kết làm thông gia, thì phải tội đồ hay lưu và phải ly dị. Nếu lấy trước rồi thì xử đoán khác”. So với thời Lý-Trần, nhà Lê đã với tay sâu hơn trong việc quản lý, chi phối khu vực này và quy định rõ trong Luật Hồng Đức: “Những người không phải ngành chính mà tranh bừa quyền phụ đạo, thủ lĩnh thì xử 70 trượng, biếm ba tư. Dòng chính phụ đạo thủ lĩnh, nếu không tâu xin mà tự tiện giữ quyền thì xử giảm một bậc” (Điều 340).
Nhiều quy định trong hình luật của nhà Lê ít nhiều có xem xét và giảm nhẹ hình phạt đối với người thuộc dân tộc thiểu số: “Người Man Liêu cướp bóc của nhau, giết nhau thì xử nhẹ hơn tội cướp, giết người một bậc; nếu hoà giải với nhau thì cũng cho” (Điều 451). Hay như quy định: “Đi thu thuế của dân Man Liêu mà không đến trình người quản giám thì xử biếm 1 tư” (Điều 595). “Ngục giám đi bắt người Man Liêu bị kiện, mà không trình quan quản giám người Man Liêu, thì xử biếm 1 tư, trong trường hợp ấy, kẻ phạm tội có đánh chửi ngục giám cũng không được xét. Nếu viên quản giám nói dối là dân Man Liêu chống cự, không sai bắt kẻ bị kiện thì cách chức quản giám” (Điều 703)[4].
Dưới triều Lê, đặc biệt từ thời Lê Thánh Tông, vai trò quyền lực của nhà nước trung ương đối với các địa phương rất to lớn. Bản đồ nước ta được hoàn thành thời Lê Thánh Tông đánh dấu bước tiến to lớn trong quản lý của nhà nước trung ương. Cả nước được chia thành 13 xứ thừa tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường. Các vùng xa như Thanh- Nghệ, Thuận Hoá, Yên Bang, Tuyên Quang, Hưng Hoá đều đặt ty và thủ ngự. Nhà nước trực tiếp quản lý các địa phương thông qua hệ thống quan lại[5].
Sử cũ còn ghi lại sự kiện: Năm 1428 vua “Hạ lệnh rằng hễ thấy người áo đỏ Mường Mộc chở mắm muối về thì không được ngăn cấm”. Nhiều tù trưởng dân tộc thiểu số có công trong kháng chiến chống Minh được trọng thưởng. Một số tù trưởng được ban đặc ân”[6].
Sau khi Lê Thái Tổ lên ngôi, tù trưởng các châu của người Thái đều phục tùng triều đình; duy chỉ có ba chúa mường luông – mường lớn là Pét Lạn (Đèo Cát Hãn), phạ Nhũ (Cương Nương) và Mứn Hắm (Quy Thang) là bất quy phục.
Về sự kiện đánh dẹp Đèo Cát Hãn, Đại Việt sử ký toàn thư chép rất vắn tắt như sau: “Nhâm Tý, Thuận Thiên năm thứ 5, mùa xuân, tháng giêng, sai Thân vương Tư Tề đem quân đi đánh châu Mường Lễ. Tù trưởng châu là Đèo Cát Hãn và con là Đèo Mạnh Vượng ra hàng. Cho ở Đông Kinh, lập Hãn làm Tư mã, rồi năm sau giết chết”[7].
Tháng 12/1432, Lê Thái Tổ lại thân đi đánh châu Phục Lễ. Tháng 2/1433, nhà vua từ Phục Lễ mang quân trở về Kinh.
Năm 1434, sau khi Đèo Cát Hãn chết, con trai là Đèo Mạnh Vượng đem mẹ về đất cũ, ngay sau đó bà rời châu Phục Lễ về Đông Đô đợi mệnh của triều đình, tâu xin cho con trai là Đèo Mạnh Vượng và Đạo Thu bận đánh nhau với Mường Lự xin về chầu sau khi đã xong việc. Tháng 1/1435, Đèo Mạnh Vượng về hàng, vua Lê sắc phong cho làm Tư mã Tri bản châu quân dân sự, tước Quan phụ hầu1. Trong tháng này, viên phụ đạo Mường Việt là Cầm Công được phép đội mũ, thắt đai vào chầu; cho Đạo Miên ở châu Mã Nam làm Đại tri châu Tri quân dân sự bản châu, tước Minh tự[8].
Tháng 2/1437 (Thiện Bình, năm thứ 4, mùa xuân, tháng giêng), thổ tù châu Thuận Mỗi phủ Gia Hưng là Đạo Quỹ, Đạo Thang dẫn người châu đó đến bắt viên thổ quan là Đại tri châu Đạo Lễ đem thắt cổ chết rồi giữ trại sách chống cự lại. Triều đình bèn phái Chiêu thảo sứ là Hà An Lược- người Mai Hạ, Mai Châu, đem quân đánh dẹp, bắt sống được Đạo Quỹ và nhiều người khác giải về Kinh. Sau chiến công ấy, Hà An Lược được làm Chiêu thảo Đại sứ; Đạo Xa – con của Đạo Quỹ được làm Hoài Viễn tướng quân kiêm Đồng tri châu bản châu, ban cho mũ đai, y phục[9].
 Tháng 1/1438, nhà vua cho phát lương ở quân doanh Gia Hưng và cho phép trấn quan Hưng Hoá cho dân vay ăn[10].
Tháng 1/1438. Lê Thái Tông thân cầm quân đi châu Phục Lễ để đánh Cầm Cương Nương vì bất phục triều đình.
Tháng 4/1440 (Đại Bảo, năm thứ nhất, mùa xuân, tháng 3), Lê Thái Tông thân chinh dẫn binh đánh dẹp viên thổ quan ở châu Thuận Mỗi vì tội chống lại triều đình. Trên đường trở về, Lê Thái Tông dừng chân tại động La (Thẩm Báo ké) cho khắc lên vách đá lời tuyên cáo:
“Bài thơ của Quế Lâm động chủ ngự chế.
Tù trưởng phản nghịch ở châu Thuận Mỗi là Thượng Nghiễm vong ân bội nghĩa[11], đem dân chúng theo người Ai Lao làm phản. Thân điều khiển 6 quân đến trị tội. Trong khoảnh khắc đã đốt trụi hai dãy núi lớn, chiếm lấy  nguồn nước. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng. Ta thương mà không nỡ chém; tha tội cho, đem quân trở về để lại bài thơ:
Nửa đêm không ngủ, thương kẻ xa
Tù trưởng kia sao dám phản ta
Thế gian còn lắm anh hùng đó
Thiên hạ ai dung kẻ nghịch tà
Đường sá gian truân không hiểm nữa
Hang tối xuân về, mướt cỏ hoa
Tẩy trừ nhơ nhớp, yên dân thiện
Không để biên thuỳ ngoài đức ta
Năm đầu, niên hiệu Đại Bảo (1440) ngày lành giữa tháng Ba”[12].
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa thu, tháng 5, vua đem quân từ châu Thuận Mỗi trở về vì Thượng Nghiễm dâng trâu và voi xin hàng và trời đương mưa, nắng dữ”.
Tuy nhiên, Thượng Nghiễm vẫn tiếp tục bất tuân lệnh triều đình. Tháng 4/1441 “Vua lại đi đánh Thượng Nghiễm ở châu Thuận Mỗi, bắt sống viên tướng Ai Lao là Đạo Mông cùng với vợ con là động La, bắt con của  Thượng Nghiễm là Sinh Tương và Cháng Đồng. Thượng Nghiễm kế cùng phải ra hàng. Vua đem quân về dâng tù, báo thắng trận ở Thái Miếu”[13].
Tháng 8/1448 (Thái Hoà, năm thứ 6, mùa thu, tháng 7) dân vùng Tây Đạo bao gồm trấn Tuyên Quang, lộ Quy Hoá và lộ Gia Hưng của Hưng Hoá, lộ Đà Giang lâm vào đói kém. Tri Tây Đạo là Nguyễn Phú tâu về triều đình: “Các trấn lộ Tuyên Quang, Quy Hoá, Gia Hưng ở miền núi rừng hẻo lánh, ruộng đất sỏi đá xơ xác lại thêm liền năm bị hạn hán, dân chúng rất đói. Xin lấy thóc kho công cho dân vay, may ra dân được hồi sinh”.
Nhà vua y lời, xuống chiếu phát thóc trong kho cho dân vay, đợi khi được mùa thì trả lại cho nhà nước[14].
Tháng 6/1453 (Thái Hoà, năm thứ 11, mùa hạ, tháng 5) Tuyên uý châu Mường Mộc là Xa La, Kinh lược sứ châu Thuận Mỗi là Đạo Xa, Tri châu châu Mường Việt là Đạo La, Quan sát sứ châu Ngọc Ma [Thanh Hoá] là Cẩm Kha về Kinh dâng sản vật địa phương, đều được vua Lê ban tiền theo thứ bậc khác nhau cùng với nhiều đặc quyền, đặc lợi khác. Theo Chúc thưcủa dòng họ Xa, dòng họ Thổ tù- Phụ đạo động Đà Lý, huyện Mộc Châu, phủ Gia Hưng lập ngày 6-2 năm Hồng Đức thứ 2 (3-1471) được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm trên lụa ta có thể thấy rõ điều đó. Nội dung bản Chúc thư như sau:
“Thổ từ Phụ đạo động Đà Lý, huyện Mộc Châu, Phủ Gia Hưng lập Chúc thư.
Tư đồ Tư mã Tư Thiếu sinh Xa Lê Miêu Xa Lê Miêu Sinh, Xa  Lê Thậm Lê Thậm Sinh, Xa Văn Phú Văn Sinh, Xa Thọ Thọ Sinh, Xa Ngọc Lan để lại ruộng đất, sản nghiệp nguyên vẹn gìn giữ cho đời sau, tránh tranh đoạt sở hữu ruộng đất, đầm ao của tổ nghiệp nên lạp Chúc thư để phân định rõ ruộng đất cùng các vật.
Nay giao cho Đạo trưởng Xa Ngọc Lan chiểu phép thường về ruộng đất để lại của tổ nghiệp, dư lập Chúc thư để đời đời truyền  con nối cháu, mãi mãi gìn giữ kỷ vật.
Như xưa nước có phép thường, nay lập Chúc thư.
Thổ tù Phụ đạo giao Đạo trưởng Xa ngọc Lan giữ một đạo, chiểu theo đúng Chúc thư thi hành.
  1. Đà Lý động binh: dân các quê xa gần thuộc quyền Quan Lang cai quản và các Quan Lang, Quan Khôn, Quan Trưởng quyền dịch quyền chán, Quan Giáo, Quan Trị, Quan Mấy, Quan Tỉnh cùng các người trong nhà Quan Lang như: Quan Lại, Quan Cốt, Quan Tiển và những người trong nhà Thổ tù, Phụ đạo động Đà Lý hàng năm cày cấy ruộng nương nước khôn quê nguồn [đất đai, xứ sở của Thổ tù, Phụ đạo].
Tháng 10: Ruộng quang do Quan Lang cày cấy.
Tháng 5: Ruộng ngọc do Quan Khôn cày cấy.
Tháng 5: Ruộng đồn do Quan trưởng cày cấy.
Tháng 5: Ruộng ban do các quan Quê cày cấy.
Còn ruộng lẻ ở tại các thôn khác thì quê nguồn thuộc các Quan Lang, Quan Khôn, Quan Mạc, Quan Công, Quan Tắt, Quan Tiên, Quan Vì, Quan Quảng, Quan Quyền, Quan Dõng và hai thôn thuộc Thổ tù, Phụ đạo kết hợp để cày cấy. Việc cày cấy phân theo nhà ở, mỗi cụm 5 nhà, những thôn rời rẽ thì mỗi cụm 3 nhà còn các thôn khác ở xã hơn thì mỗi cụn 2 nhà.
  1. Quan Khôn hễ giết trâu, bò, lợn, dê hoặc hươu nai phải nộp Thổ tù một chân và một mâm cỗ.
– Các quê của Quan Giáo, Quan Khôn hễ giết súc vật nói trên phải nộp Thổ tù một chân và một mâm cỗ, phải nộp cho Quan Khôn cũng đúng như thế.
– Quan Trưởng hễ giết các súc vật nói trên phải nộp Thổ tù một chân và một mâm cỗ.
– Các quê của Quan Trưởng , Quan Tỉnh, Quan Thông hễ giết các súc vật nói trên phải nộp  Thổ tù một chân và một mâm cỗ và phải nộp cho Quan Trưởng một bộ xương và một mâm cỗ.
– Quê của Quan Lang hễ giết các súc vật nói trên phải nộp Thổ tù một chân và một mâm cỗ, phải nộp  cho Quan Quyền và Quan Cốt một bộ xương và một mâm cỗ.
– Các thôn khác hễ giết các súc vật nói trên phải nộp Thổ tù một chân và một mâm cỗ.
– Quan Mạc hễ giết các súc vật nói trên phải nộp cho Thổ tù một chân và một mâm cỗ.
– Quan Công, Quan Tắt, Quan Liền, Quan Vĩ, Quan Quảng hễ giết các súc vật nói trên phải nộp cho Thổ tù một chân và một mâm cỗ.
  1. Các quê thuộc Quan Lang động Đà Ký phải đi tuần thú: ngày 3 người, đêm 5 người.
  2. Các quê thuộc Quan Lang bán ngựa phải nộp Thổ tù mỗi ngựa là một đại, nếu không thì Thổ tù bắt người vợ cả của kẻ bán ngựa. Khi đó Quan Lang của hai thôn (thôn Thổ tù và thôn người bán ngựa) phải tham dự lễ cướp vợ ấy. Khắp động Đà Lý này, các quê thuộc Quan Lang phải tuân theo đúng như Chúc thư của Thổ tù, Phụ đạo đã quy định.
Dưới đây liệt kê:
      1.Ruông, ao, đầm, đất và thanh bôn hoa quả 4 mùa thuộc núi rừng xa gần trong xác xú       quê Quan Lang tất cả đượcghi đúng như trong Chúc thư này:
Một thửa ruộng ngọc, ruộng binh đông giáp ruộng rừng, nam giáp suối nhỏ, tây giáp suối nhỏ, bắc giắp ruộng bản  điền.
  1. Một thửa ruộng ao, một đoạn đông giáp xứ ao, nam giáp ruộng rừng, tây giáp suối nhỏ, bắc giáp suối nhỏ.
3.Một thửa ruộng lộc, ruộng đống liền kề, một đoạn đông giáp suối nhỏ, nam giáp đống sam, tây giáp ruộng đón, bắc giáp ruộng rừng và dọi sâu.
  1. Một thửa ruộng đô năm mẫu hai đoạn: đông giáp xứ đô, nam giáp rừng, tây giáp rừng, bắc giáp xứ đô.
  2. Một thửa ruộng chằm sáu mẫu: đông giáp bản điền, nam giáp bản điền, tây giáp bản điền, bắc giáp hống.
  3. Một thửa ao rừng, một đoạn đông giáp bản diền, nam giáp bản điền, tây giáp ruộng binh thuế, bắc giáp hống.
      7.Một thửa nhược vương cung thực điền, bùi điền, đông giáp bản điền, nam giáp suối nhỏ, tây giáp hống, bắc giáp rừng.
  1. Một thửa ruộng bờ đầm: đông giáp rừng, nam giáp bản điền, tây giáp rừng, bắc giáp bản điền.
  2. Một thửa ruộng hòa hai đoạn: đông giáp bản điền, nam giáp suối nhỏ, tây giáp suối nhỏ, bắc giáp suối nhỏ.
Giao cho Đạo trưởng, Thổ tùi Xa Ngọc Lan giữ một đạo Chúc thư.
 Các thôn khác nếu nhận cày cấy thì một năm nộp: rượu hai chĩnh, xôi nếp một sâu, lợn một con và thóc gạo 1500 cân, mỗi cân 10 đấu. Dù cày cấy hay bỏ hóa đều phải tiến nộp đúng như vậy.
Ruộng đất, núi rừng, hoa quả các xứ xa gần ở động Đà  Lý: đông giáp Sùng Hưng, tây giáp Đầu Lộc Thạch Mệnh, nam giáp Chúng Bán Dương Đồn, bắc giáp Cối Cá Minh Thổ Kỵ làm bờ. Ruộng tư của họ Xa, ruộng rừng và đất đai, tất thảy điền địa thuộc  địa phận động Đà Ký đến địa ohận hai thôn gần Dương Hoàng Khu  Phiến Đồ và Bình Ban Mác Chính Thạch nay đều giao cho Thổ tù Xa Ngọc Lan quan lý.
Các Quan Quyền ở các quê thuộc địa phận cứ sau vụ đều phải tiến nạp lụa 30 thước và phải sức binh, dân cho trâu cày đất. Binh dân phải nộp liệt ngưu một đầu và lụa trắng 30 thước. Còn các thôn khác quê nguồn nước chỉ phải nộp liệt ngưu môtỵ đầu, lụa trắng hai bó 20 thước.
Địa giới động Đà Lý bốn mùa không suy xuyển, đúng như trong Chúc thư đã quy định rõ:
Đông giáp địa phận Thái Hòa (Suối Voi liền  đến Doi Cát, Quèn Lắm, Cấm Gà, Suối Lội). Tây giáp địa phận Hiệp Đưc]s (Suối Hồ, Suối Trắng, Quèn Tàng, Mỏ Đá, Đèo Vọng, Hang Mai). Nam giáp địa phận Hiền Lương (Doi Chông, Suối Động, Thạch Mừng, Quèn Hao). Bắc giáp địa phận Cường Nhuệ (từ Bờ Mèn liền đến Hang Ửng, Suối Hôi, Cửa Trai).
Vốn địa phận động Đà Lý giáp Thượng Thôn (từ Suối Nàn liền Đầm Canh, Dọi Chế, Ngọc Đương Sa, Suối Dụ Dương Linh, Hồng Đà Tản Tắc).
Ngày 6-2 năm Hồng Đức thứ 2 (3-1471).
Lập Chức thư: Thổ tù Xa Thọ ký
                    Trưởng Thổ tù, Phụ đạo Xa Ngọc Lan điểm chỉ
                    Xa Hiền, Xa An, Xa Mới, Xa Pháp, Xa Thiên, Xa ngọc Điểm chỉ” [Hà Kính. Bản Chúc thư lụa mang niên đại Hồng Đức (1471) mới được phát hiện ở Đà  Bắc. Tạp chí NCLS, số 1 (208)-1983. Phần dịch sang quốc ngữ từ văn bản Hán-Nôm được Cung Khắc Lược, Nguyễn Hữu Chế hiệu đính, chỉnh lý. Tuy nhiên, trong bài viết này còn để tồn nghi khá nhiều vấn đề như các chức quan, các hạng ruộng và đặc biệt là hàng loạt cụm từ vẫn giữ nguyên dạng phiên âm chưa giải thích được ý nghĩa hoặc so sánh với các địa danh sau này được thay thế (Đầu Lộc Thạch Mệnh, Chúng Bán Dương Đồn, Cối Cá Minh Thổ Kỵ, Dương Hoàng Khu Phiến Đồ, Bình Ban Mắc Chính Thạch, Suối Động Thạch Mừng, Dọi Chế Đương Sa, Suối  Du Đương Linh, Hống Đà Tản Tắc v.v…)
Điều đặc biệt là, trong văn bản này, chữ Quê được dùng đồng nghĩa với Làng, một từ thuần Việt được sử dụng phổ biến trong thế kỷ XV. Ngoài ra, còn nhiều từ Nôm thuần Việt khác như Tháng 5, Tháng 10 cũng xuất hiện trong văn bản].
  Tháng 5/1466 (Quang Thuận, năm thứ 7, mùa hạ, tháng 4) vua cho thay đổi xếp đặt lại quân ở 5 phủ và định quân hiệu – theo đó Quốc Oai và Hưng Hoá thuộc phủ Tây quân gồm 6 vệ (mỗi vệ có 5-6  sở, mỗi sở 400 quân), đặt chức Tả, Hữu Đô đốc, Đô đốc Đồng tri và Đô đốc Thiêm sự ở phủ; Tổng Tri, Đồng Tổng tri và Thiêm tổng tri ở vệ; Quản lãnh, Phó quản lãnh, Chánh võ uý và Phó võ uý  ở sở; Tổng kỳ ở ngũ.
Tháng 5/1467 (Quang Thuận, năm thứ 8, mùa xuân, tháng 4) vua Lê cho thu lại quân quyền và bãi chức của Tây quân Đô đốc Lê Thiệt vì có con là Bá Đạt đang giữa ban ngày phóng ngựa ra phố, dung túng gia nô đánh người; quân lính và chỉ huy của Lê Thiệt sai đi tuần tiễu biên giới đã doạ nạt lấy bạc của người châu Thoát. Đồng thời vua Lê cũng cho Tri phủ Quy Hoá là Nguyễn Thúc Thông làm Hưng Hoá Thừa tuyên sứ Tham nghị.
Tháng 8/1479 (Hồng Đức năm thứ 10, mùa thu, tháng 7), Lê Thánh Tông xuống chiếu thân hành đi đánh Ai Lao. Tuy là đi đánh nước ngoài nhưng nội dung của toàn bộ tờ chiếu lại là bản tổng kết về mối quan hệ qua lại giữa triều đình nhà Lê với các thổ tù các châu mường Tây Bắc hơn nửa thế kỷ (1427-1479), vừa dầy công vun đắp tuy lúc đậm, lúc nhạt, lúc thuận hoà, lúc đầy dông bão, vừa mang ý nghĩa chiến lược sống còn:
“Bậc đế vương đời xưa chế ngự di địch, phục tùng thì cưu mang bằng đức, phản lại thì sấm sét ra oai. Cốt để diệt bạo trừ hung, cho dứt mối lo cõi bờ bị xâm lấn; đổi lòng theo hoá, cho chọn lòng nhân của trời đất chở che.
Cho nên: Hiên Hoàng ra quân núi Trác Lộc, Chu Tuyên đi đánh rợ Hoài Di. Đó đều là thể theo lẽ đóng cửa của trời đất, bắt chước cơ khoan nhặt của âm dương. Đâu phải là thích lớn ham công, nhàm binh đánh bậy?
Tổ tông ta theo trời chịu mệnh, giữ cõi an dân, chăn nuôi bằng nhân, đánh dẹp bằng nghĩa, rạng rỡ đời trước, để phép đời sau.
Trẫm nay nối công tổ tông, giữ cơ nghiệp lớn. Vỗ yên trung châu cùng man mọi, văn trị Đại Thuấn khắp ban; phát huy mưu trí của đế vương, quy mô Chu Văn rộng mở.
Duy nước Lão Qua kia, giáp giới cõi Tây. Đương khi Thánh Tổ dẹp giặc Ngô cuồng bạo, đã nhòm sơ hở đánh úp quân ta, đến lúc Thần Vũ giết tên Thượng Nghiễm hung tàn, lại giúp kẻ gian dấy binh đánh chiếm. Chỉ vì kẻ thù của vua cha chưa diệt, mà di địch kia bạo ngược càng già. Kiêu ngạo muôn bề, lăng loàn trăm phách. Gọi Cao Hoàng là em, coi Dụ miếu là cháu lên mặt như ếch đáy giếng khác gì; sang cướp châu Lang Chánh, sang quấy phủ An Tây, nhả nọc còn độc hơn loài ong bọ. Vườn tược Sầm Thượng, Sầm Hạ, nó ăn lấn như tằm; nhân dân biên giới của ta, nó lấm lét cắn trộm. Thuận Bình, Sa Bôi do vậy rối ren; Lâm An, Quy Hợp bị chúng giày xéo. Thang Thượng, Thang Hạ là biên ấp của ta, nó cướp đoạt hoành hành; Đạo Luận, Đạo Xa, tên thổ tù phản ta, nó kêu gọi, chứa chấp. Sứ của nó sang thông, thì ta hậu đãi cho về, quan của ta giao thiệp, nó lại bắt giữ bỏ ngục.
Đến nước tên Cầm Công trong khi ẩn náu, nó đã giúp đỡ bao che và lúc tên Cầm Công trở mặt cắn càn, nó lại cho quân tiếp sức. Xâu xé bờ cõi ta, chiếm lấn đất đai ta. Khinh nhờn tự phụ, lừa dối làm càn. Đây đâu chỉ là mối lo một thời nơi cương giới, mà thực là mối thù muôn kiếp của nước nhà”[15].
Các sự kiện được Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi lại trên đây được coi là tương đồng với Quắm tố mương công bố trong phần Mướng Hằm làm chủ Mường Muổi, Khoa Ngấm lộng quyền, ải Têm Mương xây dựng Mường La. 
Giai đoạn lịch sử từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI, trước khi nhà Lê bị nhà Mạc cướp ngôi và những năm tiếp theo, các sự kiện xảy ra tại vùng Hưng Hoá không được sử Việt ghi lại nhiều lắm, ngoại trừ hai vấn đề dưới đây:
– Tháng 2/1499 (Cảnh Thống, năm thứ 2, mùa xuân, tháng giêng) quy định Nha môn Hưng Hoá trong thời hạn 1 tháng phải nộp xong tiền sai dư – tức là tiền sưu (thuế thân) trong kỳ đại  tập.
– Tháng 2/1512 (Hồng Thuận, năm thứ 4, mùa xuân, tháng giêng) triều đình sai võ tướng thống lĩnh binh tượng là Đỗ Nhạc làm Tán lý quân vụ đi các vùng Sơn Tây và Hưng Hoá đánh dẹp Nguyễn Nghiễm, một thủ lĩnh còn lại trong cuộc nổi dậy của Trần Tuân[16].
Quắm tố mương, ngược lại ghi chép về khoảng thời gian này khá chi tiết. Trong phần Bun Xung được vua Kinh đưa về làm chúa Mường Muổi, chúa Bầu điều chúa đất Thái diệt Mạc phò Lê, Mường La dần cướp quyền làm chủ vùng châu Thái đã đưa ra một bản tổng kê khá đầy đủ như sau[17]:
“Thời đó, vua Khánh Thống [Cảnh Thống, Lê Hiến Tông, 1497-1504] làm vua được 10 [8] năm đã mất; vua Thái Chinh [Thái Trinh, Lê Túc Tông, 6/1504-1/1505] trị vì được một [nửa] năm thì mất; vua Lạn Khánh [Đoan Khánh Lê Uy Mục 1/1504-1/1510] được 4 [7] năm đã mất; vua Hồng Xộn [Hồng Thuận Lê Tương Dực] đương trị vì.
Được tin anh em chúa Mường Muổi chém giết nhau, bun Xung tâu việc đó để vua rõ. Nhà vua bèn ban ấn sắc cho bun Xung về làm chúa Mường Muổi.
Bun Xung đã ở cạnh vua dưới Kinh cho đến khi tuổi già mới được về làm chúa Mường Muổi. Nay chúa lại đi chầu dưới vua, không may mất ở đó. Vì đường sá xa xôi, không đưa xác chúa về quê và an táng theo tục người Thái được, những người đi theo phải chôn chúa ở đất Kinh. Bản mường đưa phìa Bun lên thay.
 Mường La, ải Têm Mường mất, Cầm Mựt lên làm chủ nhưng vì tham lam, trai gái, không thẳng thắn nên bô lão không phục, xin Cầm Nhân Hoà cho Cầm Kheo làm chủ. Tiếp theo đó là Cầm Pành, ún Mường, Tòng Mường làm chủ.
      Ở Mường Muổi: Hai anh em Cầm Nhân Hoà đi ăn cá đầu mùa ở bản Cuông Mường, Cầm Nhân Xơ xúi po Muối, po Tố làm lam Chiềng Pấc cầm nỏ phục bắn nhưng không trúng. Hoảng sợ, hai ông lam đánh cắp ngựa của Cầm Nhân Hoà chạy trốn. Cầm Nhân Hoà chạy về Chiềng Đi nổi cồng tập hợp dân mường. Mọi người đều đông đủ chỉ vắng có po Muổi, po Tố. Biết kẻ định giết mình, chúa cử binh đánh em ở Chiềng Pấc. Xơ sợ chạy sang Lào cùng gia quyến. Còn po Muổi, po Tố chạy về xuôi gặp tạo Nộc tức bun Xung. Lúc này ông đương làm quan Tư mã chính ngạch. Số là dưới thời vua Thái Chinh ở Mường Dôn, thao Tẩu có thư về trình vua. Không ai biết đọc thứ chữ đó. Vua phải triệu bun Xung ở đất Mọi, đất Mang về xem. Bun Xung đọc được. Vua thưởng sai thao Thay, thao Nha dựng nhà cho ông ở Cửa Đông, Cửa Hậu để ngày ngày được vua sai khiến.
Cầm Phúc tranh quyền phìa Bun. Phìa Bun sợ chết ẩn vào rừng đợi dịp lấy lại Mường Muổi. Ba năm sau khi Cầm Phúc chết, phìa Bun trở lại làm chủ Mường Muổi, lấy nàng Cầm Bua sinh ra Cầm Pành (còn gọi là Pành Mường[18].
Sau thời kỳ nhà Mạc tiếm ngôi nhà Lê và cuộc chiến tranh Lê – Mạc (Nam triều – Bắc triều) nổ ra, các châu Thái hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của anh em Vũ Văn Uyên – Vũ Văn Mật, nguyên quê quán ở Gia Lộc – Hải Dương, đều có tài trí và khoẻ mạnh, lánh nạn nhà Mạc ở xóm Khau Bàu, xã Đại Đồng, trấn Tuyên Quang. Vũ Văn Mật lấy vợ và tập hợp lực lượng tại đây. Sau khi giết chết thổ tù châu Thu, Vũ Văn Mật tự xưng làm Đô tướng còn Vũ Văn Uyên chiếm thành Nghị Lang chống nhau với nhà Mạc. Vũ Văn Uyên chết, Vũ Văn Mật chiếm cứ Đại Đồng, xưng là Gia quốc công, sai người đến hành tại Thanh Hoá xin quy thuận, vua Lê phong làm Yên Tây vương vì có công đánh Mạc, được lưu thủ Đại Đồng và nối đời quản trị. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục khen: “Lòng trung nghĩa của Văn Uyên ngang với Trương Quỹ đời Tấn và Lý Khắc Dụng đời Đường”
Vì lúc đầu anh em họ Vũ lập nghiệp từ Khau Bầu nên người đời gọi là chúa Bầu, những thành trì do họ xây dựng đều được gọi là thành nhà Bầu trong Quắm Tố mương thì gọi là “Kinh giữa hàng là Bầu” và còn nhiều tư liệu ghi nhận tình đoàn kết chiến đấu giữa Vũ Văn Mật với các chúa mường người Thái.
Thời kỳ này chỉ thấy Đại Việt sử ký toàn thư, ghi lại sự kiện là vào tháng 4/1560, Thái sư Trịnh Kiểm đã sai Định quận công trấn giữ Hưng Hoá, chiêu tập vỗ về cư dân 10 châu Yên Tây, tư cấp binh lương cho họ[19].
Kể từ đây cho tới cuối thế kỷ XVI, Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều bộ sử khác hầu như không có một dòng nào ghi chép về các châu mường của người Thái. Quắm tố mương thì tập trung ghi chép về việc thay đổi, tranh đoạt, cướp quyền chủ mường ở Mường La, Mường Muổi; việc người Phẻ  quấy nhiễu bản mường và sau khi bun Phanh đánh thắng người Phẻ thì thế lực Mường La phát triển khắp vùng Tây Bắc từ cuối thế kỷ XVII trở đi.
Từ cuối thế kỷ XVII, Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng và Khâm định Việt sử thông giám cương mục bắt đầu lại để tâm đến sử liệu khu vực các châu mường của người Thái nhiều hơn. Dưới đây là một số sự kiện chính yếu nhất:
– Cuộc khởi nghĩa Lê Duy Mật- Lê Duy Chúc (1738-1770, vì cùng là con trai của Lê Dụ Tông nên trong Quắm tố mương gọi là Hoàng Mật- Hoàng Hai), mở đầu bằng sự kiện cướp Kinh thành, tiêu diệt thế lực chúa Trịnh, lập lại chế độ độc tôn của nhà Lê của một nhóm tôn thất và quan lại bất thành xảy ra vào cuối năm 1738. Lê Duy Mật-Lê Duy Chúc chạy thoát về vùng Cẩm Thủy trấn Thanh Hoá tiếp tục tập hợp lực lượng, giương cao ngọn cờ Phù Lê diệt Trịnh. Trong những năm 1739-1766, nghĩa quân của ông hoạt động mạnh ở Sơn Tây, Thái Nguyên và Thanh Hoá, Nghệ An với danh xưng Thiên Nam Đế tử, lập ra được nội phủ và ngoại phủ, chia thành 16 đồn ải ở vùng Thanh-Nghệ, khống chế cả phía nam trấn Hưng Hoá, bí mật liên lạc với chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Năm 1767, nghĩa quân rút sang Trấn Ninh, chúa Trịnh tung hàng vạn quân truy kích, bao vây. Cuối năm 1769, triều đình huy động lực lượng từ các trấn Nghệ An, Thanh Hoá, Hưng Hoá tiến đánh. “Đạo quân của Nghệ An do Bùi Thế Đạt chỉ huy tiến đánh theo đường Trà Lân. Nguyễn Phan thống lãnh đạo Thanh Hoa, Hoàng Đình Thể thống lãnh đạo quân của Hưng Hoá. Đây là những tướng giỏi của họ Trịnh, đều đã có kinh nghiệm trong những trận giáp mặt với nghĩa binh của Lê Duy Mật. Hai đạo quân Thanh, Nghệ do Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan chỉ huy bám sát sườn núi tấn công vào căn cứ Tương Ban (Mai Sơn-Hưng Hoá) và căn cứ Bạn Xung (Trấn Ninh, Nghệ An). Nghĩa quân Lê Duy Mật dựa vào địa thế hiểm yếu, núi cao rừng sâu chống cự quyết liệt nhưng cũng không giữ được hai căn cứ này. Quân Trịnh tiến sâu vào sát căn cứ Trịnh Quang, chia đặt doanh trại bao vây lâu dài. Quân Duy Mật cố thủ, quân Trịnh không tiến hơn được. Lúc này Hoàng Ngũ Phúc phải giở thủ đoạn mua chuộc dụ hàng Thế Thiều – một viên tướng đồng thời là con rể Lê Duy Mật đang ở trong thành. Thế Thiều cùng đồng bọn manh tâm phản bội, mở cửa thành ngoài cho quân Trịnh tiến vào. Chúng bắc thang trèo lên bắn vào trong thành, tiếng súng suốt ngày đêm không ngớt. Bị tấn công bất ngờ và dồn dập, nghĩa quân lâm vào tình trạng rối loạn, không thể cầm cự được lâu dài. Trong thế thua phẫn uất và tuyệt vọng, thủ lĩnh Lê Duy Mật cùng vợ con tự sát. Quân Trịnh thu gom vô số tài sản, voi ngựa, vũ khí của nghĩa quân. Cuộc khởi nghĩa Lê Duy Mật kéo dài 32 năm bị quân Trịnh đàn áp dứt diểm trong trận tấn công dữ dội vào căn cứ Trịnh Quang”[20].
– Khởi nghĩa Hoàng Công Chất (1739-1769): thủ lĩnh của phong trào vốn quê ở Thư Trì, trấn Sơn Nam Hạ (sau này thuộc tỉnh Thái Bình), năm 1739 là một bộ phận của cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Cừ lãnh đạo, nổ ra trên đất Hải Dương, sau rút về hoạt động ở Thanh Hoá cho đến năm 1751 thì rút lên vùng rừng núi Hưng Hoá.
Tại đây nghĩa quân đã liên kết với lực lượng của thủ lĩnh người Thái tên là Thành, dựa vào núi rừng hiểm trở để hoạt động với sự ủng hộ của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tháng 6-1751, họ Trịnh cử Lê Đình Chân cùng Phan Cảnh lấy thêm quân ở vùng Tuyên Quang bao vây nghĩa quân. Thủ lĩnh Thành bị bắt và giết, Hoàng Công Chất rút lui lên châu Ninh Biên, đóng ở đông Mãnh Thiên (Lai Châu). Hoàng Công Chất chiếm cứ thành Tam Vạn và còn xây thêm một toà thành khác kiên cố hơn gọi là thành Chiềng Lê (nay thường gọi là Bản Phủ) ở xã Noọng Hẹt. Thành hiện nay vẫn còn di tích. Lực lượng nghĩa quân được bổ sung rất nhiều người thuộc thành phần dân tộc thiểu số như: người Lự, người Thái, người Lào[21].
Trong khoảng từ 1754 đến 1766, Hoàng Công Chất một mặt củng cố căn cứ ở Mường Thanh, một mặt mở rộng địa bàn hoạt động ra toàn vùng Tây Bắc và một phần Thượng Lào, uy hiếp miền sông Thao và miền trung du.
“Cuối năm 1767, nghĩa quân Hoàng Công Chất từ các căn cứ ở Tây Bắc tiến xuống chiếm châu Mộc, châu Mai rồi chia quân tiến sâu vào vùng thượng du và trung du Thanh Hoá. Lúc này lực lượng nghĩa quân đã có tới 2 vạn người, nghĩa quân chiếm các sách, động Quan Gia, Cổ Luỹ, Thiết úng, ái Chử và Bất Một thuộc Thanh Hoá; sau đó đánh úp huyện Phụng Hoá, châu Lang Chánh và chuẩn bị kế hoạch tấn công An Trường. Trước thế mạnh như vũ bão của quân khởi nghĩa, chính quyền họ Trịnh phải điều quân đội từ trung ương cùng quân bản bộ các vùng Hưng Hoá, Thanh Hoá hợp lực chống đỡ. Nghĩa quân Công Chất lại rút lui.
Mùa xuân năm 1768, chúa Trịnh Sâm giao cho Nguyễn Đình Huấn thống lãnh các đạo Thanh Hoa, Sơn Tây và Hưng Hoá, đem quân đánh Mường Thanh. Quân của Đình Huấn cùng hội với quân của Trấn thủ Hải Dương Phạm Ngô Cầu, Phan Lê Phiên và Nguyễn Xuân Huyên để hiệp đồng tác chiến. Đình Huấn trên đường đi, đóng quân ở Việt Sơn để chuẩn bị cho đủ lương thực, khí giới. Dân trong vùng tỏ rõ thái độ “bất hợp tác” bằng cách bỏ trốn, không chịu cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân Trịnh. Đình Huấn thấy tình hình khó khăn, báo về phủ Chúa, Chúa Trịnh liền bổ Đoàn Nguyễn Thục lên thay. Cuối năm 1768, Hoàng Công Chất bị bệnh qua đời, con là Hoàng Công Toản tiếp tục chỉ huy nghĩa quân. Sau khi chuẩn bị đầy đủ lực lượng, lương thực, khí giới, đầu năm 1769, Đoàn Nguyễn Thục cùng Vũ Huy Đình, Nguyễn Trọng Hoành đốc thúc đại quân tiến vào đất Mường Thanh. Công Toản cố thủ ở Thẩm Cô và bố trí nghĩa quân mai phục những nơi hiểm yếu. Trước sức tấn công quá mạnh của quân Trịnh, các căn cứ của nghĩa quân lần lượt bị đánh tan. Công Toản chạy thoát, thành trì bị san phẳng. Quân Trịnh đã dập tắt được cuộc khởi nghĩa Hoàng Công Chất trên vùng đất biên cương vào năm Kỷ Sửu (1769)[22].
Quắm tố mương ghi chép về Lê Duy Mật với cách gọi Hoàng Mật- Hoàng Hai, về Hoàng Công Chất với cách gọi là Kinh Thiên Chất, Keo Chất, cho ta một cách nhìn khác như sau trong phần viết về Lê Duy Mật, Hoàng Công Chất chiếm Tây Bắc, bun Hiềng chiếm lại Mường Lò trong tay người Hỏ và người  Giằng.
Cùng với Quắm tố mương, Khâm định Việt sử thông giám cương mục  đã ghi lại nhiều sự kiện và diễn biến liên quan đến phong trào Lê Duy Mật – Hoàng Công Chất ở khu vực các châu mường Thái như sau:
– Năm 1752 (Cảnh Hưng, năm thứ 13), Xa Văn Ba ở châu Mộc tụ tập lực lượng nổi dậy cướp đồn Vạn Chan.
– Tháng 2/1768 (Cảnh Hưng, năm thứ 29, mùa xuân, tháng giêng), triều đình cử tướng Nguyễn Đình Huấn thống lĩnh các đạo Thanh Hoa, Sơn Tây, Hưng Hóa đánh Hoàng Công Chất ở vùng thập châu. Tháng 9 năm ấy, khởi phục cho Đoàn Nguyễn Thục giữ chức Giám quân các đạo Thanh Hoa, Sơn Tây và Hưng Hoá[23].
– Tháng 2/1769 (Cảnh Hưng, năm thứ 30, mùa xuân, tháng giêng). Thống lãnh Đoàn Nguyễn Thục mang quân đi đánh Thanh Châu, bình định được động Mãnh Thiên.
Trước đây, Nguyễn Đình Huấn vâng lệnh đi đánh Hoàng Công Chất, khi kéo quân đến Cổ Pháp, chần chừ không tiến quân, nhiều lần Trịnh Sâm sai người thúc giục, Đình Huấn bèn tiến quân đóng ở Việt Châu bắt dân cung cấp lương thực, dân đều trốn tránh, lùng bắt không được người nào, ngờ có quân mai phục, trong bụng càng sợ hãi, bèn bàn kế rút quân về. Bọn Phạm Ngô Cầu cũng phụ hoạ với lời bàn của Đình Huấn, Tán lý Vũ Huy Đĩnh không sao quyết đoán được, chỉ có Giám quân Đoàn Nguyễn Thục cố tranh cãi, cho là không nên rút quân.
Bọn Đình Huấn liền cho người phi ngựa đệ tờ khải nói: “Trong quân lương ăn không được kế tiếp, tiến thoái đều khó. Vả lại quân sĩ nhiều người mắc bệnh, xin cho thuốc thang cứu chữa”. Lúc ấy, Nguyễn Thục cũng làm tờ khải trình bày theo, nói rõ là Đình Huấn hiệu lệnh không thống nhất; khinh rẻ lấn át tướng hiệu: buông lỏng cho quân lính đi cướp bóc; chần chừ không chịu tiến quân; tất cả mười việc.
Đương đêm, Trịnh Sâm nhận được tờ khải của Đình Huấn, đã có ý không bằng lòng, cho triệu các quan trong Chính phủ vào bàn định, nghiêm khắc quở trách Đình Huấn. Tiếp đó lại thấy tờ khải của Nguyễn Thục, Trịnh Sâm nổi giận nói: “Ta vẫn biết Đình Huấn không thể dùng được, nay quả nhiên như thế”. Lập tức hạ lệnh triệu Đình Huấn về, mà bổ Nguyễn Thục kiêm giữ chức thống lãnh các đạo Sơn Tây, cầm quân thay Đình Huấn, lại đổi bổ Vũ Huy Định giữ chức Giám quân, Nguyễn Trọng Hoành giữ chức Tán lý.
Lúc ấy, Hoàng Công Chất đã chết, con là Công Toản tự xưng là Quốc công thống suất lực lượng vẫn chiếm cứ đất này. Nguyễn Thục sau khi đã thay làm tướng, quyết kế tiến đánh, cầm gươm ra lệnh cho tướng sĩ rằng:-Nếu người nào không theo mệnh lệnh, sẽ trông vào thanh kiếm này! Tướng sĩ không ai là không run sợ. Nguyễn Thục bèn tiến quân vào Thanh Châu, quân trẩy đến đâu không xâm phạm tơ hào gì của dân cả. Công Toản giữ ở Thẩm Cô để kháng cự lại, các nơi xung yếu đều có đặt quân mai phục. Nguyễn Thục sai toán quân nhanh nhẹn sắc bén tiến lên trước đánh úp, tiếp đó sai toán quân mạnh khoẻ theo đường tắt hợp sức cùng đánh, phá tan được quân địch. Công Toản chạy sang Vân Nam. Nguyễn Thục vào chiếm lấy thành, sai quan quân chia đường truy nã, bắt được quân nhu, khí giới và thóc lúa tích trữ không sao kể xiết, bàn san phẳng cả thành, rồi kéo quân trở về.
Sau bàn công đánh dẹp: Nguyễn Thục tuy có công tiến đánh, nhưng sau khi hạ được thành, không lập tức đuổi theo, để nghịch Toản chạy thoát được, nên chỉ được thăng hai bậc, trao cho chức tự khanh; Đình Huấn vì nhút nhát rút lui nên phải giáng chức và tước mất lộc binh dân. Còn các người khác đều căn cứ vào công hoặc tội, mà cho thăng chức hoặc truất giáng có từng bậc khác nhau[24].
– Tháng 2/1770 (Cảnh Hưng, năm thứ 31, mùa xuân, tháng giêng) Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan đánh phá được Lê Duy Mật ở thành Trình Quang và xứ Trình Ban (Mai Châu).
Duy Mật giữ lấy chỗ gò cao thành Trình Quang, dựa vào hang hốc núi non làm kiên cố. Được tin quân ba đạo kéo vào, Mật muốn cố chết giữ vững lấy thành, rồi cho toán quân lưu động lên ra đón đường chặn đánh làm cho quan quân mỏi mệt. Thế Đạt và Nguyễn Phan đốc suất quân hai đạo Thanh, Nghệ, bám sát sườn núi tiến vào, đánh phá ở các xứ Trình Ban và Bản Xung, nhiều lần được thắng trận, nhân đấy tiến sát đến ngoài gò cao thành Trình Quang, chia ra đặt doanh trại. Duy Mật cho quân đóng yên một nơi không hành động, hai viên tướng chưa biết thực hư thế nào không dám cho quân tiến thẳng vào. Gặp lúc ấy, Hoàng Ngũ Phúc chiêu dụ được mẹ tên Lại Thế Thiều là viên tướng của Duy Mật, Ngũ Phúc sai mụ này viết thư dụ dỗ Thế Thiều để làm nội ứng. Thế Thiều là con rể Duy Mật, khi nhận được thư của mẹ, bèn nhị tâm với Duy Mật, hắn ngầm khuyên đồ đảng là Lê Văn Bản mở cửa thành ngoài cho quan quân tiến vào. Khi quan quân đã vào, bèn bắc thang trèo lên bắn vào trong thành, tiếng súng suốt ngày đêm không ngớt. Duy Mật tự biết rằng đã vỡ lở ngay từ trong nhà rồi, liên tụ tập vợ con, rồi tung lửa đốt để tự chết cháy.
Bọn Thế Đạt vào thành, thu thập được khí giới, ngựa, voi và vàng lụa kể cả hàng vạn. Dùng thổ tù là Lư Cầm Uẩn, Lư Cầm Khâm làm Chánh xà và Phó xà để giữ đất ấy. Trấn Ninh hết thảy đều bình định được.
Sau bàn luận công đánh dẹp, gia phong Bùi Thế Đạt làm đại tư đồ, Nguyễn Phan làm thái tể, Hoàng Đình Thể làm thiếu bảo; còn tán lý, tham mưu, giám quân và tướng hiệu đều thăng thưởng có từng cấp bậc khác nhau.
Trước đây bàn định việc dùng quân đánh Trấn Ninh, các quan trong ngoài đều cho là khó, vì chỗ ấy vừa hiểm trở vừa xa xăm, chỉ một mình Trịnh Sâm đoán trước là tất thắng, cho nên mưu đồ đánh dẹp đều do Sâm vạch ra, thành thử cuối cùng mới có thể thu được toàn thắng. Nhưng cũng về việc thắng trận này mà mới sinh ra lòng thích đánh dẹp, khinh thường việc dùng binh lính[25].
Sau khi dẹp xong Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật trên đất Hưng Hoá, tháng 6/1772 (Cảnh Hưng, năm thứ 33, mùa hạ, tháng 5), triều đình chấp nhận lời tâu bẫy của Lưu trấn thủ trấn Hưng Hoá cho bãi bỏ lệnh cấm dân biên trấn tàng trữ binh khí (trừ trấn Yên Quảng)[26].
– Tháng 3/1779 (Cảnh Hưng, năm thứ 40, mùa xuân, tháng 2), vua Cảnh Hưng ban sắc phong cho phụ đạo châu Mai Sơn là Bạc Cầm Qúy, cử làm Phòng ngự Thiêm sự ty Quân dân phòng ngự sứ.
Nguyên văn sắc phong như sau: “Sắc: Mai Sơn châu phụ đạo Cầm Nhân Quý vi dĩ thị phụng phiên thần, phụ đạo phá hữu tài nghệ, tài thượng tiến tiền sao dĩ tư quốc dụng. Đặc từ phòng ngự kiểm sự, chức Khả Vi Quả cảm tướng quân, quân dân phòng ngự sứ ty phòng ngự Kiểm sự. Hạ ban thử sắc. Cảnh Hưng tứ thập niên, nhị nguyệt, thập tam nhật” (Sắc ban cho phụ đạo châu Mai Sơn là Cầm Nhân Quý vốn có tài võ nghệ, lại dâng tiền để giúp vào chi dùng việc nước. Đặc phong chức Phòng ngự Thiêm sự ở ty Quân dân phong ngự sứ, hành Quả cảm tướng quân. Hạ ban. Nay sắc. Cảnh Hưng, năm thứ 40, tháng 2, ngày 13).
Hiện sắc phong này còn lưu giữ bằng chữ Hán và chữ Thái trên vách đá hang Thẩm Mu, xã Chiềng Mai, huyện Mai Sơn. Cầm Nhân Quý là một  nhân vật nổi tiếng trong số các chúa đất mường  Mụa. Ông có công giúp triều đình đánh giặc ở vùng Hưng Hoá, Tuyên Quang, Cao Bằng. Trong Quắm tố mương của Mai Sơn có ghi việc ông giúp vua Cảnh Hưng đánh nước Tụ tức miền Tụ Long hiện thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Trong nhân dân, phổ biến những câu ca tụng ông như:
“Chúa đánh giặc Hồ, giúp đất Mường Kinh
Chúa đi đến tận vùng Đồng Văn, Bảo Lạc…”
Cầm Nhân Quý lúc đương thời gọi là án nha Cố hoặc pú chảu Cầm Chựa. Chúa là người rất gan dạ. Khi quân Hồ đánh kinh đô, nhà vua sai người lên điều các chúa Thái đem binh đánh giặc. Chúa vâng lệnh ngồi trên ngựa chiến đi đầu hàng quân, hai tay cầm hai thanh gươm dài hàng sải. Chúa mặc áo giáp của vua Bó cáp (một loại ma bay lơ lửng trên không), áo đâm chém không đứt, đạn bắn không thủng. Khi giáp trận, chúa đâm chém ba ngày, ba đêm không buông tay kiếm. Máu giặc vẫy vào người biến áo thành màu đỏ thẫm. Đến ngày thứ ba, giặc Hồ tan. chúa vẫn như điên, như loại, mặt rực đỏ, hai mắt trừng trừng, tay khư khư kiếm báu. Bộ hạ phải vực chúa xuống ngựa, mời chúa nghỉ ngơi. Nhà vua thấy chúa gan dạ phong cho chức Quả cảm Tướng quân.
Trở lại với Quắm tố mương, các sử liệu ghi lại những diễn biến diễn ra kể từ sau khi phong trào Hoàng Công Chất, Lê Duy Mật bị dập tắt ở địa phương khá đầy đủ, chủ yếu vẫn là những sự thay ngôi đổi chủ diễn ra ở các châu mường, mối quan hệ của các chúa mường với những vị vua cuối cùng của nhà Lê và cả các vua thời Sơn Tây. Ngoài ra, Quắm tố mương còn giành ra một số trang viết về các tạo Mường Muổi, Mường La, Mường Mụa tranh nhau đất, cuối cùng Mường La vẫn làm chủ.
Như vậy, trong suốt 8 thế kỷ, trải qua các triều Lý – Trần – Lê những chính sách về dân tộc ngày một hoàn thiện, nhanh chóng chuyển từ sự ràng buộc bằng hôn nhân, sang sử dụng quyền lực đối với mọi ý đồ cát cứ, để hướng mục tiêu thống nhất đất nước, củng cố nền độc lập dân tộc. Với tất cả các mặt tiến bộ, cũng như những mặt trái của vấn đề, lịch sử có lúc tiến lên, có lúc vòng lại, đe doạ nhiều đến khối đoàn kết và sức mạnh của dân tộc. Đó là thực tế và là những bài học lịch sử sâu sắc để lại cho đến tận ngày nay.
2 . SƠN LA THỜI NGUYỄN
  1. Nới lỏng sức dân
Sau khi lật đổ triều đại Tây Sơn, tháng 8/1802 Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long, lập tức đối diện với tình hình hết sức rối ren ở Đàng Ngoài, khi đó gọi là Bắc Hà: Vấp phải sự chống đối mãnh liệt của các cựu thần và dòng dõi nhà Lê. Tại vùng biên giới phía bắc nhà Thanh và các thế lực địa phương Trung Hoa không ngừng nhòm ngó.
Để bảo toàn nền thống trị của họ tộc, Gia Long và tiếp theo là các đời vua Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) đã  tìm mọi biện pháp để củng cố, thâu tóm quyền hành về chính quyền trung ương. Đối với phạm vi một trấn, sau là một tỉnh như Hưng Hoá điều đó được thể hiện khá đầy đủ trong các đường hướng, chủ đích của triều đình:
Ý tưởng đầu tiên của Gia Long được đem thực thi là, ngoài khu vực các đơn vị hành chính các chúa Nguyễn đã từng cai trị sẽ có hai khu vực hành chính lớn là Bắc Thành bao gồm toàn bộ đất đai do vua Lê – chúa Trịnh đã từng cai quản và Gia Định Thành, vùng đất mới phía Nam.
 – Soạn xong bộ luật Gia Long vào tháng 8/1812 gồm 22 quyển, 398 điều; ban hành luật Gia Long dưới tên là Quốc triều luật lệ vào tháng 8/1815 với tư tưởng chủ đạo là bảo vệ uy quyền của nhà vua, khôi phục và củng cố trật tự xã hội, trấn áp mọi hành động cũng như ý định phản kháng của dân chúng.
– Ban hành phép cấm người buôn bán nước Thanh kết hôn với phụ nữ trong nước vào tháng 11/1829.
– Tháng 11/1828, nhân có lời tâu bầy xin đổi lối quần áo từ Thanh Nghệ ra Bắc Thành theo cách ăn mặc của người miền trong, tức là từ sông Gianh trở vào.
– Đối với vấn đề thuốc phiện, liên tiếp trong tháng 8/1820, 4/1824, 5/1831, 1/1834, 12/1835, 11/1839 thời Minh Mệnh và từ năm 1852 đến 1856 thời Tự Đức, triều đình ban lệnh cấm hút, chế biến, mua bán, tàng trữ nhưng đến cuối năm 1864 phải chấp nhận cho lưu thông nhưng nhà nước sẽ đánh thuế rất nặng (năm 1865 bắt đầu thu thuế, đã được 382.200 quan – trong đó Hưng Hoá thu được 1.000 quan).
– Tháng 10/1835, triều đình ra lệnh cấm người miền núi tự chế và sử dụng súng tự chế(điểu sang – còn gọi là điểu thương) nhân Minh Mệnh có mật chỉ gửi cho Viên Cơ mật.
– Để giữ yên lòng dân, triều đình đã chú trọng đến việc khoan giảm thuế má, chẩn cấp thóc gạo, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, khẩn hoang lập đồn điền, chiêu tập dân lưu tán, cung cấp nông cụ và thóc giống cho dân ở những nơi bị binh đao, loạn lạc tàn phá dữ dội.
Tháng 2/1832, Minh Mệnh cho ban hành lệ cày tịch điền và chăn tằm ở các địa phương.
Tháng 1/1835, cho đặc cách hoãn thuế 1 năm cho dân chúng  trang Đông Quang, huyện Trấn Yên vì bị cướp bóc và nạn binh hoà thời gian qua tàn phá.
Tháng 2/1835, được tin kho thóc của tỉnh Hưng Hoá bị hao hụt nhiều, Minh Mệnh sai tỉnh Sơn Tây chở đến bổ sung 20.000 hộc thóc; lại cho đặt thêm 2 vệ binh Nam Kỳ ở tỉnh thành Hưng Hoá.
– Tháng 9/1835, để giữ yên và vỗ về lòng dân, Minh Mệnh sai ban Thông dụ về việc đã dẹp yên các cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ.
– Đầu năm 1836 việc tranh chấp đất đai giữa Trình Cố của Thanh Hoá với Mộc Châu của Hưng Hoá kéo dài hơn 30 năm mới tạm thời ổn thoả.
Từ tháng 8/1804, năm Gia Long thứ 3, châu Trình Cố và Mộc Châu đã kiện tụng tranh nhau động Hàm Man. Vua sai các quan Bắc Thành và trấn Hưng Hoá, trấn Thanh Hoa đến hội xét. Mộc Châu không đưa được chứng cớ xác đáng, lời lẽ lúng túng nên các quan thành và trấn bèn lấy động ấy trả cho Trình Cố. Đến tháng 11/1824, năm Minh Mệnh thứ 5, hai châu lại tranh chiếm 2 động Mộc Thượng và Cẩm Nang vốn thuộc Mộc Châu, kiện nhau mãi không xong, thuế khoá không chịu nộp. Quan Bắc Thành đem việc tâu lên, vua sai bộ Hinh đem việc ấy ra bàn bạc rồi cuối cung xin lấy sông Mã làm phân giới, phía nam sông thuộc Thanh Hoa, phía bắc sông thuộc Hưng Hoá mà 2 động ấy lại ở về phía bắc sông Mã nên xử cho về địa giới Mộc Châu để chấm dứt cuộc tranh giành. Minh Mệnh theo lời nghị bàn, sai trấn thần Thanh Hoa lấy diều họa phúc hiểu bảo châu Trình Cố và tha tội cho.
Đến đây, vấn đề 2 động Mộc Thượng, Cẩm Nang lại trở thành vấn đề lớn giữa Mộc Châu và Trình Cố, dù trước đây đã giải quyết. Hai động này có 18 bản (người Thái gọi thôn xóm là bản), ở phía bắc sông Mã đất thuộc Mộc Châu mà dân Trình Cố từ lâu nay vẫn cày cấy và ở đã thành sản nghiệp. Bản án trước xử lấy sông Mã làm địa giới, cho đất nó thuộc về Mộc Châu; Trình Cố cuối cùng vẫn không phục tình. Lúc này, vua sai Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên Lê Văn Đức tư đi thương nghị với quyền Tổng đốc Thanh Hoa Phạm Văn Điển, sai người hội khám, bèn chọn uỷ thự Tri phủ Hà Trung là Ngô Văn ước và Tri huyện Tam Nông là Nguyễn Sùng Nguyên đến nơi, lấy tình, lý hiểu dụ chỉ bảo. Mộc Châu xin nhượng cho Trình Cố, liền dựng mốc phân minh ở nơi ấy. (từ Luân Sơn đến Biều Sơn đều dựng bia làm mốc ở chân dãy núi về phía nam: trở về bắc là giới hạn Mộc Châu, trở về nam là giới hạn huyện Trình Cố. Bia khắc 6 chữ Giáp giới Mộc Châu-Trình Cố. Rồi làm sớ tâu lên.
Vua nói: “Hai châu, huyện này vì tranh nhau địa giới, gây nên kiện tụng lâu năm. Nay phái viên 2 tỉnh khéo hiểu thị để họ nhường nhau, không tranh kiện, đổi được thói Man Lạo, làm  thói nhường nhịn nhau như người đất Ngu, đất Nhuế thực đáng khen. Vậy thưởng cho Phạm Văn Điển, Lê Văn Đức đều gia 1 cấp. Chuẩn cho Ngô Văn ước, Nguyễn Sùng Nguyên (Sùng Nguyên đã có Chỉ thăng thự Lại khoa Cấp sự trung) được thực thụ ngay. Thưởng chung bọn biền binh, lại dịch và thông ngôn là những người tuỳ phái 100 quan tiền.
Ngoài việc tranh chấp với Mộc Châu, Trình Cố còn tranh chấp dân Mán (Dao) Sầm Bản thuộc châu Ninh Biên của Hưng Hoá. Tháng 4/1831, Minh Mệnh năm thứ 12, nhà vua sai Tổng trấn Bắc Thành và trấn quan Thanh Hoa hội khám. Khi án tâu lên, cũng xin lấy sông Mã làm giới hạn với phía nam sông thuộc Thanh Hoá, phía bắc sông thuộc Hưng Hoá. Với cách phân chia này Mán Sầm Bản gần Trình Cố mà xa Ninh Viễn nên đổi lệ cho lệ thuộc vào Trình Cố. Minh Mệnh chuẩn y.
– Việc cấp binh lương cho binh lính đóng giữ tại các đồn trên đất Hưng Hoá và việc chống gian lận khi thu tô thóc của dân được triều đình rất chú trọng.
Năm 1838, Hộ phủ Hưng Hoá là Ngô Dưỡng Cáo dâng tập thỉnh an nói: 12 đồn ở trong tỉnh hạt là Bảo Thắng, Phong Thu, Ninh Biên, Bảo Nghĩa, Lô Khê, Trấn Hà, Đông Quang, Bách Lẫm, Quỳnh Lâm, Vạn Bờ, Bằng La, Thượng Hạ lộ, trong đó lính ở đồn Quỳnh Lâm theo lệ do tỉnh phái đến đóng giữ, còn các đồn khác, hoặc là thủ hạ, hoặc là thổ binh từ 20, 30 đến 70 người không giống nhau, từ trước đến nay, chỉ trình bày tổng số, thường khi có phái điểm, không khỏi sự đội tên mạo nhận, xin uỷ viên tra xét, có người trá mạo và suy yếu thì thải bớt đi. Đồn nào theo lệ được chi lương, nên đình cấp cho đỡ tốn. Lại xét ngoài các đồn sở, ven núi bên động, còn nhiều đất bỏ không, có thể trồng cấy được, nên sức cho khai khẩn để làm ruộng lương.
Vua chuẩn cho theo bộ Binh bàn: Đồn nào quan yếu nhất thì số lính lấy 50 người làm hạn, quan yếu vừa thì 30 người, không quan yếu thì 20 người, đến kỳ tháng 4 kê khai rõ họ, tên, tuổi, quê quán, làm sổ kính đệ lên. Lính mộ thì thường xuyên canh giữ, lính Thổ thì mỗi năm một lần thay đổi, nếu có ai già yếu đau ốm, viên quản đồn bẩm báo lên cho thải ra điền vào, bỏ tên trong sổ, không phải phái người xét lại.
Đối với việc thu tô, nhằm tránh những thủ đoạn ăn chặn thóc của dân tựu trung như một việc thử thóc, lệ trước mỗi thăng thóc lấy 2 thược (đơn vị đo lường khi ấy) thóc nổi làm tiêu chuẩn, trẫm đã lượng đổi làm 3 thược, sau lại gia đến 4 thược, đó là muốn cho tiểu dân được dễ dàng việc nộp thuế. Nhưng triều đình dựng ra phép tuy là hay mà mánh khoé của bọn gian hoạt không cùng. Tóm lại, do quan địa phương không chịu tận tâm về việc dân để cho bọn nha lại, kẻ giữ kho được giở trò khôn khéo kiếm lợi riêng. Hễ có tiền đút lót thì thóc dù nổi quá lệ cũng thu cho ngay; không tiền thì dù thóc có sạch, dù tốt cũng không khỏi bị bác bỏ. Chính vì vậy triều đình đã phải có những quy định chặt chẽ nhằm loại trừ tệ nạn này.
– Chăm lo đến dân lưu tán, không có ruộng đất.
Số là sau khi đi kinh lý tìm hiểu về dân tình trong địa hạt, tháng 2/1839, Hộ phủ Hưng Hoá Ngụy Khắc Tuần dâng tập thỉnh ăn nói: “Một dải Phù Hoa, Đà Bắc, Mộc Châu, Yên Châu, thuộc hạt, 2 bờ tả, hữu sông Đà, nguyên có nhiều thổ dân Thạch Bi tỉnh Ninh Bình ở tản, từ trước đến nay không biên vào sổ, xin kiểm xét số người, ít thì cho thuộc vào sở tại, nhiều thì lập thành xã thôn khác, biên vào sổ bắt đầu thu thuế, cho có thống trị”.
Vua bảo rằng: “Nay nên chuyển sức các viên Tri châu, phàm thổ dân ở Thạch Bi đến ngụ ở bờ sông, thuộc phận châu nào, số nhân khẩu từ 19 người trở xuống, sáp nhập vào thổ dân sở tại; từ 20 người trở lên, cho biệt lập thành xã thôn, để dần dần đổi thói người Thổ theo thói người Kinh, rồi chọn đặt Lý trưởng, lệ thuộc vào viên Tri châu quản trị, bắt đầu thu thuế từ năm nay. Quan tỉnh ấy tìm xét ra số đinh cộng trên 360 người, tâu xin theo dụ làm việc”. Vua y cho.
– Chú trọng việc cấp gạo cho dân đói, củng cố phòng bị đồn lũy để chống phỉ từ nước Thanh vì từ cuối năm 1872, dân chúng huyện Văn Chấn thuộc tỉnh Hưng Hoá đói to. Triều đình sai trích thóc ở kho Nghĩa thương để chẩn cấp cho dân. Lại cho giảm 2 phần 10 số thuế các sở quan tân của Hưng Hoá vì bị Thanh phỉ quấy nhiễu. Đối với các trại quân ở Tuyên Quang, Hưng Hoá được phép dựng từ 3 đến 5 lớp rào gỗ. Các thuyền buôn không được mang muối, gạo, thuốc phiện và súng ống đến 2 tỉnh này vì sợ Thanh phỉ được tiếp ứng. Tán lý quân thứ Sơn Hưng Tuyên là Tôn Thất Thuyết được sung chức Thám tán, có quyền điều động toàn bộ Đề đốc, Tán lý trong khu vực. Tháng 8/1873, cấp thóc gạo cho dân Trấn Yên và thổ dõng đóng ở châu Văn Bàn, huyện Thanh Xuyên vì đang lâm vào thiếu đói.
  1. Xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ
– Năm 1822, dưới triều Minh Mệnh thành trấn Hưng Hoá được xây đắp lại bằng đá ong. Nguyên dưới triều Lê, tỉnh trấn Hưng Hoá được đặt ở động Bách Lẫm huyện Trấn Yên rồi dời đến sách Phương Giao huyện Thanh Xuyên. Vì khách buôn nước ngoài không thiện tiện vào nội trấn nên triều đình phải đóng nhờ ở xã Trúc Phê (khi ấy gọi là Trúc Hoa) huyện Tam Nông, trấn Sơn Tây. Triều Nguyễn, thời Gia Long, trấn thành vẫn ở đây nhưng chỉ được đắp bằng đất.
Theo Đại Nam thực lục – Chính biên (Đệ nhị kỷ Q.XIII) thì, tháng 2 năm Nhâm Ngọ, Minh Mệnh thứ 3, đắp thành trấn Hưng Hoá. Thành ở Trúc Phê (tên xã thuộc huyện Tam Nông) khuôn khổ cũ thấp hẹp. Trước vua đi Bắc Tuần, sai viên Giám thành đến ngắm địa thế để mở rộng thêm. Đến nay sai Thống quản thập cờ Trung quân là Nguyễn Khắc Tuấn trông coi 1500 người các quân thuộc Bắc Thành đến ứng dịch. Nhà dân và đình miếu phía ngoài thành, chỗ nào cần dời đi nơi khác thì cấp tiền. Khi thành đắp xong, viên Giám tu và Chuyên biện đều được thưởng tiền bổng và kỷ lục[27].
Trấn thành Hưng Hoá chu vi hơn 360 trượng, cao 1 trượng 2 thước 1 tấc; hào rộng 2 trượng 2 thước, sau 6 thước 9 tấc, mở 4 cửa.
– Tháng 8/1833, thự Tuần phủ Hưng Hoá là Ngô Huy Tuấn tâu về triều đình: “Tỉnh hạt có 16 châu, đất rất rộng rãi, huống chi ngoài thì giáp địa giới nhà Thanh, trong thì lũ giặc còn có kẻ ẩn nấp chưa bắt hết được. Xin cho thổ mục đặt làm thổ Tri huyện và Lại mục ở huyện Thanh Xuyên và châu Văn Bàn. Dân huyện Tam Nông thuộc tỉnh hạt, trước bị thổ phỉ quấy rối làm hại. Vậy xin người nào bị hại nặng, xin tha cho thuế mùa hạ, người nào bị hại nhẹ, xin hoãn việc thu thuế”. Minh Mệnh theo như lời tâu xin.
Trong tháng, triều đình còn trang bị cho tỉnh thanh Hưng Hoá 2 khẩu Đại luân xa thảo nghịch tướng quân bằng đồng, 4 khẩu Tích sơn bằng đồng, 16 khẩu Hồng y bằng gang. Lại chia cấp 500 đồng tiền Phi long hạng lớn, 100 đồng tiền Phi long hạng nhỏ cất vào trong kho phòng khi dùng đến. Thự Tuần phủ Ngô Huy Tuấn tâu xin: “Số các hạng súng bằng gang hoặc bắng sắt mà nhà nước cấp cho bản tỉnh khá nhiều nhưng không có lính pháo thủ để coi giữ. Vậy xin mộ dân ngoại tỉnh từ Quảng Bình trở vào Nam lấy 50 người am hiểu nghề bắn, đặt làm đội pháo thủ, đặt dưới quyền điều khiển của viên Thành thủ úy”. Vua chuẩn y.
Trong năm ấy, cho xây dựng đàn Xã tắc và miếu Hội đồng ở phía bắc tỉnh thành Hưng Hoá.
– Tháng 3/1834, Ngô Huy Tuấn tâu về triều đình: -Tỉnh hạt Hưng Hoá xa rộng, tiếp giáp với Ninh Bình và Tuyên Quang, còn nhiều những kẻ can phạm ẩn nấp, nhằm những chỗ sơ hở mà nhòm ngó. Nay ở Ninh Biên vừa cấp báo mà số lính ở tỉnh còn ít. Vậy xin mộ dân ngoại tịch bất cứ người Nam hay người Bắc dồn cho đủ 5 đội, đặt làm cơ thứ 2 của Hưng Hoá để điều khiển lúc lâm sự.
Minh Mệnh cho rằng, đương lúc có việc, cần sai phái, cho phép được quyền biến thi hành lời đã thỉnh cầu. Lại cấp cho Hưng Hoá 20 cây súng mã sang hạng ngắn và 2000 phát thuốc đạn để cấp theo thớt voi (mỗi thớt voi được 2 cây súng, 10 viên đá lửa, 50 phát thuốc đạn). Truyền sai Hà Nội chuyển vận đến phát cho tỉnh 2000 cân thuốc súng. Tháng sau, triều đình đổi định việc đặt súng lớn ở tỉnh thành Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên đều được 1 cỗ súng đồng Đại luân xa, 1 cỗ súng đồng Phách sơn, 2 cỗ súng gang Phách sơn, 8 cỗ súng gang Hồng y, 10 cỗ súng đồng Quá sơn. Lại cấp thêm 2.000 cân diêm tiêu, 400 cân lưu huỳnh. Các hạng biền binh đương ban được xem xét để tiếp tục cấp  tiền, gạo theo lệ. Đến kỳ tháng 7, cho phép Tuần phủ, Bố chánh, án sát tuỳ theo công việc trong tỉnh nhiều hay ít mà xin lưu cả hay chia ban các hạng biền binh hiện có.
– Hàng loạt lỵ sở của huyện, châu cũng được lần lượt xây dựng như lỵ sở huyện Yên Lập đặt tại Vân Bản (1835), lỵ sở châu Lai Châu ở xã Hoài Lai (1837), lỵ sở châu Phù Hoa tại xã Quang Huy, lỵ sở châu Mai Châu tại xã Tân Mai, lỵ sở châu Văn Chấn tại xã Đại Lịch (1838), lỵ sở châu Mộc Châu tại xã Quy Hướng (1845), sau đó rời về xã Mộc Hạ (1869).
– Tháng 11/1858, Tự Đức cho rằng phủ Điện Biên là nơi địa đầu quan yếu mà đất nhiều khí độc, lính thú ở lâu không tiện, bèn theo lời bàn của  Nguyễn Bá Nghi trước đây xin cho lính dõng rút về, cho phép lập trai đinh trong châu Ninh Biên thành cơ đội, giao cho viên trú phòng của phủ Điện Biên quản lĩnh và chia phái để canh giữ. Đến tháng 6/1867, Tự Đức lại cho 4 huyện, châu thuộc 2 tỉnh Hưng Hoá, Tuyên Quang lập cơ thổ dõng (châu Văn Chấn ở Hưng Hoá trước giản binh có 60 người, rút về sổ dân, trích lấy thổ dõng 500 người; 3 huyện Mai Châu thuộc Hưng Hoá, Hàm Yên và Chiêm Hoá thuộc Tuyên Quang trước giản binh có 83 người, rút về chọn lấy thổ dõng 1000 người, đặt người cai quản, khi có việc thì triệu ra, cấp lương miễn thuế ở làng, lúc không có việc thì cho về làm  ruộng, mỗi năm cứ tháng 2 thì điểm duyệt 1 lần). Tháng 11/1868, Tự Đức lại cho chọn dồn quân khỏe mạnh ở Hưng Hoá (2 huyện Trấn Yên, Yên Lập mỗi huyện 4 đội, mỗi đội 40 người, khi xong việc thì cho về).
Như vậy, có thể xem manh nha của lực lượng dân binh – tức thổ dõng ở Hưng Hoá xuất hiện từ tháng 11/1858, hoàn thiện vào 10 năm sau đó. Về vấn đề này, Cầm Trọng trong Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam cung cấp cho ta nhiều tài liệu quý, nhưng nguyên do và thời điểm ra đời của thổ dõng thì còn khá mông lung:
“Đến thế kỷ XIX, dươi thời Nguyễn, ở các châu mường Thái mới xuất hiện tên “thổ dõng” (lính dõng người bản địa). Căn cứ vào lời dụ của Tự Đức phát năm 1871 thì do quân lính của triều đình cử đến với những quan võ ngại khổ, ngại khó nhút nhát chỉ huy: “Giặc đến sợ không dám tiến dánh, mặc cho giặc tự do đốt nhà cướp của làm hại dân địa phương. Khi giặc cướp chán, no nê đến lúc rút đi rồi mới đuổi theo sau lấy mạo là đi tiêu diệt tăng số chém bắn giặc chết lên để nhận làm công mình, lấy thưởng…”. Do khó khăn đó cho nên Tự Đức đã cho các thổ tù lập ra thổ dõng để giữ gìn trật tự an ninh ở địa phương. Đến đời Đồng Khánh vào lúc những tên thực dân Pháp đầu tiên đặt chân tới xâm lược các châu mường ở Tây Bắc thì số thổ dõng ở một số châu mường được ghi lại như sau:
– Châu Sơn La                                           98 người
– Châu Mai Sơn                                        49 người
– Châu Phù Yên                                       182 người
– Châu Ninh Biên (Điện Biên)              184 người
– Châu Thuận                                            98 người     
– Châu Tuần Giáo                                              50 người
– Châu Lai                                                             50 người
– Châu Quỳnh Nhai                                            48 người
                                                   ________________
                                                      Cộng:            759 người[28].
Xưa người Thái chưa có những loại lính thường trực như kiểu thổ dõng nên không có tên gọi. Đến thời Nguyễn mới có thổ dõng nên người Thái cũng gọi là lính doỏng (lĩnh dõng). Trước khi xuất hiện tên này, người Thái gọi những đoàn quân chinh chiến của mình là côn với ý nghĩa là đoàn người xếp thành hàng dài nối nhau ra trận. Nó là từ đồng nghĩa với từ cảy côn, để chỉ số người kéo nhau dàn thành hàng dài cùng đi về phía trước. Như  vậy từ côn chỉ lính mới có sau này.
Số lính dõng ở các châu mường đều dưới quyền chỉ huy trực tiếp của các chẩu mường. Thời đó các chẩu mường thường được triều đình phong cho những chức về quân sự như Bạc Cầm Ten (Tiên) ở Thuận Châu là Đội bẩy, Cầm Lả ở Mường La là Đội năm, Cầm Văn Thanh ở Mai Sơn là Suất đội, Cầm Ngọc Hánh ở Mường Lò là Hiệp quản Phó đề đốc …”[29].
Phạm Thận Duật Toàn tập Sđd, tr.144-145 cho rằng: “Đầu đời Lê, quân đội đóng trên địa bàn châu huyện như sau:
–  Ở huyện Thanh Xuyên                                    gọi là đội Thắng Nhất
–   châu Mộc                                         gọi là đội Tiệp Nhất
–   châu Thuận                                      gọi là đội Hùng Nhất
–   châu Thủy Vĩ                                               gọi là đội Ninh Nhất
–   châu Đà Bắc                                                gọi là đội Tiệp Tiền
–    châu Quỳnh Nhai                           gọi là đội Hùng Tiền
–  Ở châu Mai                                          gọi là đội Thắng Tiền
–   châu Sơn La                                     gọi là đội Dũng Tiền
–   châu Mai Sơn                                              gọi là đội Dũng Hậu
–  Ở  châu Chiêu Tấn                                          gọi là đội Ninh Tiền
–   châu Lai                                           gọi là đội Ninh Hậu
      Còn quân hiệu ở các châu huyện: Việt, Tuần Giáo, Ninh Biên, Văn Bàn, Luân, Yên chưa rõ.
 Cảnh binh ở Văn Chấn                         10 tên
– Thanh Sơn, Thanh Thủy hơn              40 tên
– Trấn Yên                                                              6 tên
– Tam Nông                                                          40 tên
 Cộng lại thành 4 đội
 Lại có 10 đội vệ binh, 3 đội lính thú ở Sơn Tây, giữ điện và tuần thành 1 đội, giữ đồn Phong Thu 50 tên, giữ đồn Bảo Thắng 30 tên, giữ đồn Nghĩa Bảo hơn 10 tên, giữ đồn Vạn Pha 30 tên. Các đội Nông Điếm, Nội Điếm cũng có tên riêng, điếm phu 19 tên. Lại có lính thổ dõng ở phủ Điện Biên. Năm Thiệu Trị nguyên niên [1841], châu Tuần Giáo 10 tên, châu Thuận 100 tên, châu Lai 40 tên. Gồm 200 tên.
Năm Tự Đức thứ 4 trở về sau, lần lượt tinh giảm đi: thổ dũng ở Tuần Giáo còn 10 tên, châu Thuận 13 tên, châu Lai 10 tên, Ninh Biên 10 tên… Cộng 60 tên.
Về lính lệ các châu huyện, chỉ có Tam Nông và Ninh Biên 30 tên, còn các châu huyện khác mỗi nơi chỉ có 20 tên.
Thổ binh ở tổng Cao Phong, huyện Thanh Thuỷ rất thiện xạ, từ đời Lê về sau, hễ có việc ở biên giới, nhiều người đắc dụng. Nay tổng ấy đã chia về huyện Bất Bạt thuộc Sơn Tây.
Vệ binh, nguyên trước có 2 vệ, năm Tự Đức thứ 7, vì quân ấy phần nhiều căn cước không rõ ràng, nên giảm bớt 1 vệ, còn 7 đội người Nam, 3 đội người Bắc họp thành một vệ. Lính thú vùng núi vốn có 300 tên, năm Tự Đức thứ 17 cũng giảm còn một nửa.
– Đầu năm 1878, nhân tiết xuân, Tự Đức xuống chiếu ban bố cho dân Hưng Hoá và các hạt vừa trải qua binh lửa, lụt lội sự gia ân cứu giúp của triều đình. Các thổ Tri phủ, Tri châu, Thổ ty, Thổ mục của Hưng Hóa và một số hạt khác đều được thưởng kim tiền có thứ bậc. Tuần phủ Hưng Hoá là Nguyễn Huy Kỷ tâu bầy, ngoài việc cấp tuất cho binh đinh chết trận, những người hy sinh mà chưa có vợ con thì số tiền tuất ấy xin cho làm chay và tế một tuần để thoả vong linh của họ.
Trước Tự Đức muốn mộ dân dời đến biên giới để cho thượng du được vững mạnh, đã sức cho các quan tỉnh: nơi nào nguyên có dân ở và ruộng đất đã cày cấy nộp thuế mà trốn đi bỏ hoang, thì phải chiêu dụ về ngay để ở và cày cấy, nơi nào nguyên chưa ở và cày cấy, ruộng đất bỏ hoang, thì lần lượt mộ dân để khai khẩn, nếu có thiếu vốn thì Nhà nước cấp vốn cho, đợi 5 năm nộp một nửa, cho miễn một nửa, ruộng đất đều làm nghiệp riêng đời đời, 10 năm mới bắt đầu thu thuế. Đến tháng 4/1879 lại dụ rằng: Trong nước có phên che ở ngoài, cũng như người có 4 chân tay, nhà có cửa ngoài, 4 chân tay mạnh, cửa ngoài vững chắc, rồi sau mới có thể giữ được bên trong mà ngăn được kẻ quấy rối ở bên ngoài. Nước ta dọc theo biên giới, thượng du các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, địa thế dài rộng, ruộng đều cày cấy được, đất đều ở được, lại có mối lợi về núi rừng. Trẫm thường ngày đêm lo nghĩ, chính sách mộ dân khẩn điền là việc cần phòng giữ biên giới ngày nay. Nay chuẩn cho từ tỉnh Thanh, tỉnh Nghệ trở ra Bắc, bọn Đốc, Phủ, Bố, án, Đề, Lãnh cho đến quan lại các phủ, huyện, đều theo lời Dụ bảo, hoặc chính mình tự đương, hoặc khuyến xuất chiêu mộ.
– Thống đốc Hoàng Tá Viêm cho rằng: Thượng du Hưng Hoá địa thế rộng rãi, rừng đồi nhiều ngả, dễ để cho bọn xấu đến được chỗ hiểm chọn nơi rậm rạp. Nếu không có một phen kinh lý, để làm nơi bỏ hoang, là giúp cho kẻ xấu. Xin đặt nha Sơn phòng, chọn phái viên thuộc chuyên làm công việc đồn điền khẩn hoang. Sức cho các lính mộ, đều đến nơi hoang rậm tuỳ sức khai khẩn, rồi đem nơi liên lạc với nhau cứ từ 50 đến 100 suất đinh lập làm 1 xóm, 2 xóm hoặc 8-9 xóm (suất đinh phải được trên dưới 500 người) lập làm 1 làng, sổ sách ghi chép ở huyện, châu sở tại, ngõ hầu được người họp nhiều, đất mở rộng, và thanh thế lừng lẫy. Đủ hạn, chiểu lệ thưởng phạt chuẩn cho theo nghĩ mà làm. Còn Sơn phòng sứ ấy, Hoàng Tá Viêm đã lấy Tế tửu Quốc tử giám Nguyễn Quang Bích xin cho sung vào, vua y cho. (Nha Sơn phòng Hưng Hoá được đặt ở phía hữu đồn Thục Luyện, huyện hạt Thanh Sơn, công việc cũng hơi giống như Sơn phòng tỉnh Sơn Tây).
Thống đốc Hoàng Tá Viêm lại dâng sớ về việc trù nghĩ việc phòng giữ biên giới và công việc xếp đặt về sau 7 điều (1 điều về trù nghĩ biên phòng, tỉnh hạt Hưng Hoá cắt lấy hơn 10 phủ, huyện, châu ở thượng du đặt thêm một tỉnh, đặt thêm quan lại, lương cấp cho binh lính, để quân côn đồ nước Thanh không được chiếm cứ làm sào huyệt gần; 6 điều về công việc xếp đặt về sau (một là sửa sang đồn luỹ, để cầm phòng cho nghiêm; hai là kinh lý châu, huyện để được tụ họp mở mang; ba là giúp đỡ dân ở châu; bốn là khen thưởng khuyến khích người tài giỏi; năm là yên ủi người bị giặc bắt theo; sáu là sắp xếp chỗ cho đứa ra thú).
  1. Đánh dẹp Thanh phỉ
 Tháng 4/1875, Hoàng Tá Viêm được giao thống quản các đạo quân tiến đánh Hoàng Sùng Anh. Dinh của Triệu Đạo đón đầu đánh xuống, quân của Lưu Vĩnh Phúc từ dưới đánh lên. Binh thuyền từ Sơn Tây, lực lượng của Thổ mục người Mèo đồng thời cùng đánh. Lưu Vĩnh Phúc tự mình đem quân đánh vào sào huyệt của Hoàng Sùng Anh ở Bắc Pha, Bản Quả thuộc châu Phù Yên tỉnh Hưng Hoá. Hoàng Sùng Anh đem tàn quân chạy xuống làng Châu Thượng, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây thì rơi vào tay Ông ích Khiêm và Tôn Thất Thuyết[30]. Ngay sau đó, triều đình sai Tuần phủ Hưng Hoá là Nguyễn Huy Kỷ và Quan quân thứ Nguyễn Văn Giáo chia nhau đến Thập Châu để ngăn tàn quân Cờ vàng đang tràn đến đấy. Lại cho sửa lại hai đồn Trấn Hà, Quán Ty vốn là những nơi quan yếu gần đây thường bị Thanh phỉ chiếm giữ, tàn phá.
 Căn cứ vào sự thiệt hại, mất mát của dân chúng Hưng Hoá trong những năm binh lửa vừa qua, tháng 12-1879 triều đình quyết định cho tha thuế 5 năm đối với những nơi thiệt hại nặng nề nhất là các châu Phù Yên, Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Quỳnh Nhai, Thuận Châu, Tuần Giáo, Luân Châu và 3 tổng của châu Văn Chấn; tha thuế 4 năm đối với những nơi thiệt hại vừa là các châu Điện Biên, Văn Bàn, Chiêu Tấn và  1 tổng của châu Văn Chấn; tha thuế 3 năm đối với những nơi thiệt hại ít là các châu Mai Châu, Đà Bắc và 13 xã của huyện Thanh Sơn, Thanh Thủy.
Tháng 7/1880, nhà vua lại cho tha thuế còn thiếu của 2 năm trước đối với các châu Ninh Biên, Lai Châu, Tuần Giáo, Luân Châu, Quỳnh Nhai tổng cộng là 84 lạng bạc, 1771 quan tiền, 218 hộc thóc để thưởng cho việc không người dân nào trong phủ đi theo Thanh phỉ. Lại sai Hưng Hoá lượng phát thêm tiền gạo để chẩn cấp cho dân lưu tán; cấp thóc giống cho dân chúng châu Phù Yên vì mọi người chạy loạn trở về, không mua được thóc giống.
Cuối năm 1882, triều đình cho tha hẳn các hạng thuế cho dân 7 châu là Quỳnh Nhai, Lai Châu, Tuần Giáo, Luân Châu, Ninh Biên, Thuận Châu, Mai Sơn thuộc đạo Tân Hoá mới lập (các thứ thuế là tiền thóc, vàng, bạc và diêm tiêu).
 Đối với công lao và tội trạng của các viên quan được sai đi dẹp Thanh phỉ ở Sơn Hưng Tuyên, cho giáng Hiệp biện Đại học sĩ Địch Trung tử Hoàng Tá Viêm làm Tổng đốc, nhưng vẫn đeo cách, lưu; thư Tổng đốc Vệ Chính nam Tôn Thất Thuyết làm Tham tri, đều cách bỏ tước tử, tước nam, vẫn sung chức Thống đốc, Hiệp đốc.
  1. Với các cuộc khởi nghĩa phản kháng ở địa phương
Cuộc nổi dậy của Xa Văn Nhị: Tháng 12/1826, thổ tù châu Đà Bắc là Xa Văn Nhị tập hợp lực lượng, bắt giữ người công sai, định giữ châu để nổi dậy. Khi đó, Xa Văn Nhị tôn một người trong tôn thất nhà Lê là Lê Duy Khương làm minh chủ, phong Mai Đình Khuê làm Thượng đạo Thống lĩnh, mở rộng địa bàn hoạt động đến các huyện Hoa Khê, Tam Nông trấn Sơn Tây. Triều đình cho quan trấn thành quản lĩnh binh lính, phát hịch kêu gọi thổ mục, thổ binh các châu đến đánh bắt, Quản hạt Ninh Bình thấy vùng thượng du tiếp giáp với địa bàn hoạt động của Xa Văn Nhị – Lê Duy Khương lấy làm lo ngại, báo cho án sát trấn Thanh Hoa là Tôn Thất Dịch rồi đem binh và voi đi kinh lược địa hạt; truyền hịch sai thổ ty, thổ mục các châu huyện đóng chặn vùng Thạch Bi thuộc huyện Lạc Thổ, phái 200 biền binh theo Quản phủ Thiên Quan đóng giữ bảo Lãng Phong. Trấn thủ Hưng Hoá là Phan Bá Phụng tấn công vào sào huyệt của Lê Duy Khương ở Hoa Khê, Tam Nông.
Tháng 4/1827, Xa Văn Nhị trốn vào rừng núi. Hiệp trấn Hưng Hoá bị cách là Trần Văn Thông cùng với văn võ của thành phái đi, đem quân dò xét, bắt được cả hai cha con Xa Văn Nhị, Mai Đình Khuê cùng nhiều thủ lĩnh khác giải về Bắc Thành.
Trấn áp cuộc khởi nghĩa do Lê Duy Lương lãnh đạo
Lê Duy Lương sinh năm 1814 tại Thanh Hoá, lên 3 tuổi thì phụ thân là Lê Duy Hoán bị sát hại, nhờ có Lê Duy Nhiên (tên thật là Đỗ Trọng Xuyên, người Ngọc Sơn-Thanh Hoá) bí mật đưa về Sơn Âm-Ninh Bình nuôi dấu trong gia đình Quách Tất Công, Quách Tất Tại, Quách Tất Tế, Quách Tất Nham.
Sau khi cùng các thủ lĩnh họ Quách xây dựng căn cứ, thu nạp nghĩa sĩ, tích luỹ binh lương, đầu năm 1833, Lê Duy Lương bí mật gửi thư kêu gọi tiến hành khởi nghĩa dưới ngọn cờPhù Lê diệt Nguyễn mà đối tượng là binh lính của triều đình.
Hưởng ứng lời hiệu triệu, tháng 3/1833 (Nhâm Thìn, Minh Mệnh năm thứ 13) lính Ninh Thiện thuộc tỉnh Nghệ An đứng dậy, giết cai đội Đỗ Trọng Thái và 8 người biền binh, đốt đồn trại, cướp khí giới, rồi do đường núi Kỳ Sơn và Hội Nguyên, chia  nhau trốn ra Bắc.
Tổng đốc Tạ Quang Cự được tin báo, tức thì phái quản vệ dinh Thần sách là Trần Đức Lộc và Lê Văn Tề đem binh chia đường chặn bắt.
Tính đến thời điểm đầu tháng 4/1833 ngoài lực lượng chính đóng rải rác ở Đà Bắc, Châu Mai, Châu Mộc, lực lượng nghĩa quân còn phân ra từng khu vực:
– Vùng Thanh Xuyên có Đinh Công Tiến, nguyên là thổ Tri huyện,  gia nhập phong trào, giữ chức Thống lĩnh Trung quân; con trai là Đinh Thế Đội giữ chức Phòng ngự Thạch Bi, Đinh Công Duy, nguyên Chánh đội Trung cơ Hưng Hùng bị cách, được phong là Khâm mệnh quan; Bùi Quang Đạo – Cai đội, Nguyễn Văn Sĩ, Chánh Thân tức Phan Đình Tấn nắm trong tay trên 1.000 nghĩa quân.
– Vùng Châu Mộc có Chiêu Dẫn xưng là Điều Bát cùng các thủ lĩnh Thái, Ba Ký, Quan Trịnh, Ba Nhàn, Đinh Công Hội, Đinh Công Lân.
– Tập trung ở vùng Tản Viên là Đinh Công Tiên, Long Phê, Long Quần, Long Phao, Chiêu Rồng (con trai Quách Tất Công), lý trưởng Phùng.
Ngoài ra còn các thủ lĩnh khác như Chiêu Tế, Chiêu Nham,  Bẩy Bền, Nho Quang, Nho Sớ, Nho Nguyệt, Lê Văn Lân, Phạm Doãn Dũng, Hoàng Kim Thịnh, Đinh Thế Đức, Xa Văn Chấn, Đinh Công Tôn, Đỗ Viết Trai …
Với lực lượng trên, từ cuối tháng 4/1833, Lê Duy Lương mang quân tấn công huyện Tam Nông, làm chủ khu vực phía đông sông Đà. Một lực lượng lớn ước chừng trên 2.000 nghĩa quân chia làm nhiều cánh tiến về bao vây tỉnh thành Hưng Hoá.
Cùng thời điểm ấy, nghĩa quân Ba Nhàn, Tiền Bột đến phối hợp bao vây đánh tỉnh thành Hưng Hoá, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tiến, vốn là tri huyện Thanh Xuyên, tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Lê Duy Lương.
Trận vây thành Hưng Hoá là một trận phối hợp quy mô của nghĩa quân hai tỉnh Sơn Tây và Hưng Hoá. Bản tâu của tướng Nguyễn Văn Mưu phần nào phản ánh tình hình này: “Tôi nghiệm thấy… các thổ tri trâu, tri huyện ở Mai Châu, Mộc Châu, Đà Bắc, Thanh Xuyên ngầm mưu gây biến, tụ tập châu mục, thổ dân dựa núi làm tổ, một mặt vây đánh tỉnh thành Hưng Hoá một mặt phối hợp với Sơn Tây chặn đường quan quân đến cứu”.
Vẫn theo lời tâu của Mưu, “bọn giặc ước hơn 2000 tên đều có súng ống khí giới chia làm 3 cánh bày ra 3 cửa tiền, tả, hữu của tỉnh thành. Lại thấy giặc có 7 chiếc thuyền ván và hơn 30 chiếc thuyền nan”[31].
Ngoài việc bao vây tỉnh thành Hưng Hoá, nghĩa quân còn chia lực lượng tấn công nhiều nơi trên đất Hưng Hoá, Sơn Tây, khiến quân đội triều đình phải lúng túng căng mình đối phó khắp nơi.
Đinh Công Tôn, thổ Tri huyện An Lập thuộc Hưng Hoá, Đỗ Viết Trai thí sai thổ Huyện thừa cùng Đinh Công Tiến, Phạm Doãn Dũng, chiếm giữ 2 huyện Hạ Hoa và Hoa Khê, rồi từ đó đem lực lượng tiến vào xã Lễ Nguyên và xã Tam Sơn (đều thuộc Phúc Thọ) phối hợp với nghĩa quân vây đánh tỉnh thành.
Thổ Tri châu Văn Bàn là Hoàng Kim Thịnh đem hơn 400 người đánh phá đồn Trấn Hà, được Thổ binh trong đồn trở giáo đi theo. Suất đội giữ đồn là Lê Thế Tiệp thua chạy, nghĩa quân bèn cướp lấy súng ống, khí giới, của cải, đồ vật, mở lao thả tù, tiếp đánh đồn Bách Lẫm.
Vào giữa tháng 7/1833 chiến dịch giải vây tỉnh thành Hưng Hoá để bắt sống Lê Duy Lương – Lê Duy Nhiên bắt đầu triển khai và thu được kết  quả.
Tháng 8/1833 tinh thần tâu dâng bản án phản nghịch là Lê Duy Lương, Lê Duy Nhiên, Lê Văn Lận, Phạm Doãn  Dũng và Hoàng Kim Thịnh.
Sau khi Lê Duy Lương – Lê Duy Nhiên bị bắt, nhiều thủ lĩnh của phong trào như Quách Tất Công, Phạm Công Nho, Phạm Bá Nho, Hà Công Kim, Hà Công Thần, Phạm Thúc Liêm, Lê Phi ất chuyển địa bàn hoạt động về Thanh Hoá. Năm 1836, theo sự điều động của Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên, Nguyễn Văn Quýnh, Quản vệ Hưng Hoá, đem binh dõng đang đóng chặn ở 2 Châu Mai, Mộc từ Vạn Bờ (Mai Châu), Phú Lệ (Quan Hóa), thẳng tới động Hồi Xuân, hai lần đánh nhau với nghĩa quân.
  1. Đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân trong vùng
 Tháng 7/1864, Tự Đức năm thứ 17, người Mông nổi lên cướp khí giới ở các bảo Bình Lư, Phong Thu, đốt phá nhiều nhà cửa. Thổ Tri châu là Điêu  Đức Chính đem binh dõng chống lại bị chết trận. Triều đình ban dụ sai án sát, Chánh hoặc Phó lãnh binh đem một lực lượng chừng 200-300 quân đến nơi để điều độ, đánh dẹp, vỗ về dân chúng châu Quỳnh Nhai. Đầu tháng 11/1864, người Mèo châu Văn Chấn lại nổi dậy. án sát Nguyễn Di, Lãnh binh Trần Đức Trang được phép tuỳ nghi tiến đánh, vỗ về. Lại cho Nguyễn Bá Nghi có trách nhiệm kiêm hạt, sai phái, trù liệu thêm, kể cả việc tăng quân để việc sớm được yên.
 Tháng 4/1865, Tự Đức năm thứ 19, người Mông lại nổi lên ở châu Chiêu Tấn, châu Quỳnh Nhai. Tỉnh thần là Phạm Đề phái binh đến đóng ở châu Văn Bàn, châu Thuỷ Vĩ để đối phó. Đến tháng 11 năm ấy, họ lại nổi lên đánh phá Trấn Yên, Thủy Vĩ. Phó lãnh binh Trần Đức Tráng đem 300 quân đánh dẹp nhưng gặp phục binh khi đi tắt qua đường rừng châu Văn Bàn. Trần Đức Tráng bị trúng đạn, chết ngay tại trận. Hiệp quản Nguyễn Văn Thành, Tri huyện Phạm Mẫn Triệu lui chạy, bị cách chức. Triều đình sai tỉnh thần là Nguyễn Mại khẩn cấp phái binh đến đánh dẹp. Binh lính tỉnh Sơn Tây cũng được điều đến để đánh giáp công. Lại sai lĩnh án sát Nguyễn Di và Phó lãnh binh Vũ Quang Tuyên đem biền binh tới chiêu dụ. Ngoài 20 đầu mục đến xin phục tùng triều đình, những người nổi dậy ở Thủy Vĩ, Văn Bàn, Quỳnh Nhai và Trấn Yên cũng hạ vũ khí. Nhận được tin, Tự Đức đã miễn lệ thuế cho xã dân Đông Quang, Phong Dụ và Đại Phác vì bị tàn phá nặng nề trong cuộc chiến vừa qua; tha thuế năm trước và trong năm cho dân các xã phiêu tán vì binh lửa ở các châu, huyện thuộc Chiêu Tấn, Trấn Yên, Văn Bàn, Thủy Vĩ.
Dưới thời Pháp thuộc, mặc dù trên danh nghĩa nhà Nguyễn vẫn tồn tại nhưng chỉ còn là cái bóng hư danh. Vả lại, mũi nhọn đấu tranh của nhân dân cả nước đều tập trung và kẻ thù chính là bọn ngoại xâm. Chính vì lẽ đó, các phong trào đấu tranh chống triều đình một cách đơn thuần hầu như đã tự triệt tiêu. Người ta chỉ còn ghi nhận được một vài sự kiện như sau diễn ra ở Sơn La:
 Tháng 3/1895, có một người tên là Am, tuổi chừng 18-20, ở xóm Ba Kên (Mường Kê), làng Mộc Hạ, thuộc Châu Mộc, được trưng tập làm cu li cho một đoàn xe đi Mường Hét. Vì bực mình, anh ta trốn về làng và tự nhận là vua, tên hiệu là Đinh Thiếu Hoàng. Một số người ở Thanh Hoá, Hưng Hoá, Mai Châu hợp tác với anh ta, lập ra một toán quân từ 50 đến 60 người, do một viên Lãnh binh và một viên xuất đội chỉ huy. Vũ khí của họ là súng Tây và súng Mường.
Một toán lính được cử đi đánh dẹp Am, gồm một viên quan hai và 25 tay súng. Am ẩn náu ở Mường Le chạy trốn về Mường Bái. Phó quan lang Đinh Công Quý ở Chợ Bờ, chịu trách nhiệm cai quản vùng Đà Bắc và quan lang ở Quy Đức, nơi quê quán của Am, đã bắt được Am. Tháng 4/1895, toán quân của ông vua này chỉ còn lại có 4 người. Một người tên là Lý Hiến, người Thanh Hoá, hình như là người xúi giục nên sự việc này. Ngày 27/4/1895, Am bị đưa về Hà Nội cùng với 4 đồng đảng[32].
 Tháng 4/1896, người Dao ở Phù Yên triệu tập toàn thể người Dao thuộc địa bàn Sơn La về qua Chợ Bờ và Vạn Bú để ra mắt nhà vua tại Hà Nội. Nhưng chưa kịp hành động những quan chức người Dao ở Phù Yên đã bị Đặc phái viên của Chính phủ bảo hộ tại Vạn Bú thải hồi và sự việc đột xuất này đã không xảy ra nữa[33].
 Ngày 28/1/1929, một người Thái ở Thuận Châu tên là Quàng Văn Pản làm đơn gửi Công sứ Sơn La khiếu kiện viên Tri châu và các thành viên trong gia đình Bạc Cầm Kỳ về tội vòi tiền, ức hiếp dân chúng và lạm quyền[34].
Nhìn nhận một cách tổng quát và khách quan, dưới thời Nguyễn, các vấn đề về dân tộc và miền núi ở phía Tây Bắc Việt Nam được thể hiện trong một hệ thống chính sách khá toàn diện và hoàn chỉnh, đi từ duy trì hoặc cách tân một loạt chế độ để xoá bỏ dần tư tưởng ly khai, phân liệt của các thủ lĩnh địa phương, trong đó có cả nhiều người lấy danh nghĩa là tôn thất nhà Lê. Hơn thế nữa, các chính sách ấy còn được lồng ghép trong những chủ trương về thuế khoá, cải tổ hệ thống đơn vị hành chính và bộ máy quản lý hành chính, sự tôn trọng trong một chừng mực cho phép về quyền tự chủ của một số vùng dân tộc, trong việc xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ. Một khi xuất hiện những nhân tố làm suy yếu sự thống nhất quốc gia, làm tổn hại đến đời sống dân chúng, tất cả các ông vua của triều Nguyễn đều kiên quyết loại trừ và tiêu diệt. Đó là một hiện thực và một sự thật, dù nó có phũ phàng, nhiều điều đáng lên án.
Chú thích:
[1] . Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chép là Trịnh Giốc Mật.
[2] .  Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Sđd, tr.67Khâm định Việt sử thương giám cương mục, tập 1, Sđd, tr.489.
[3] Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Sđd, tr.321.
[4] Quốc triều hinh luật (Luật hình nhà Lê), Viện Sử học và Nxb Pháp lý ấn hành, Hà Nội, 1991, tr.47.
[5] Phan Hữu Dật- Lâm Bá Nam. Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (X- XIX). Nxb CTQG, H.2001, tr.43-46.
[6] Đoạn trích trên được lấy từ cuối Chương IV (Tạ Ngần xây dựng Mường Muổi, phát triển thế lực khắp vùng sông Đà, sông Mã) trong Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên), tr.73-82.
2 . Nguyên văn chữ Hán chuyển sang
[7] Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Sđd, tr.475. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (tập 1, trang 838-839) lại chép rằng: “Nhà vua chính mình cầm quân đi đánh châu Ninh Viễn, thắng trận. Kha Lại chạy rồi chết, Đèo Cát Hãn lẩn trốn. Nhà vua đặt đất Ninh Viễn là châu Phục Lễ. Tháng 3 trở về cung, dâng tù binh ở nhà. 
[8] Tháng 3/1448, theo  Đại Việt sử ký toàn thư, Tư không châu Phục Lễ là Đèo Mạnh Vượng có tội, cho tự tử. Sai Nhập nội Tư mã Lê Ê đem 5000 quân hộ tống em thứ 2 của Mạnh Vượng cho làm Chiêu Thảo sứ kiêm Tri châu Phục Lễ, tịch thu gia sản của Mạnh Vượng.
[9] Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Sđd, tr.525; Khâm định Việt sử thông giám cương mục,tập 1, Sđd, tr.875. Theo Hưng Hoá tỉnh lược (Gia phả họ Bạc) vào thời điểm ấy Đạo Chưởng vỗ về những người Mường
[10] Nguyên mấy năm trước, khi Lê Thái Tổ đi đánh châu Phục Lễ, sai vận chuyển lương thực đến cất giữ ở quân doanh Gia Hưng. Theo lời tâu của Tuyên uý Đại sứ trấn Hưng Hoá là Lê Đạo về việc kho lương thực có thể bị mục hỏng, xin chuyển về Đông Đô nhưng Trung thừa Bùi Cẩm Hồ đề nghị giữ lại, cho dân vay.
[11] Có sách viết là Trưởng  Nghiễm.
[12] Nguyên văn bài thơ chữ Hán như sau: Binh chẩm tiêu tâm niệm viễn nhân; Man tù hà sự tốc vong thân; Thế gian nhược hữu anh hùng chủ; Thiên hạ thuỳ dung hạn nghịch thần; Điểu  đạo, duyên vân không thị  hiểm; âm nhai sương noãn dĩ hồi xuân; cách trừ ô nhiễm an lương thiện; Nhẫn sử hà manh, ngoại chí nhân.
[13] Đại Việt sử ký toàn thư,  tập 2, Sđd, tr.549-550. Theo Phan Huy Chú (Lịch triều hiến chương loại chí) và Đại Nam nhất thống chí (tập 2, Thanh Hoá) thì, trong những chiến công ở Thuận Mỗi phải kể đến Lê Khôi.
    Lê  Khôi là con người anh thứ 2 của Lê Thái Tổ. Dưới triều Thái Tông, ông là người bày đặt được nhiều kế hoạch cho việc binh nhung. Năm 1437 ông được làm Nhập nội Tư mã, Tham tri chính sự coi việc quản các vệ Tây Đạo. Năm 1439 theo vua đi đánh Ai Lao, bắt được nhiều tù binh. Năm 1440 và 1441, theo vua đi đánh Thượng Nghiễm ở châu Thuận Mỗi; trở về được phong Nhập nội Đô đốc, được tham dự vịệc triều đình. Sau đi coi việc ở phủ Nghệ An
[14] Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Sđd, tr.4570Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1, Sđd, tr.915.
[15] Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Sđd, tr.742-743.
[16] Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên). Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái, Sđd, tr.96-101.
2 . Chúng tôi sắp xếp lại cho đúng với hiện thực, kể cả thứ tự và thời gian trị vì của các vua Lê.
[18] Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên). Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái, Sđd, tr.96-101.
[19] Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Sđd, tr.211.
[20] Lịch sử Việt Nam, tập IV, Thế kỷ XVII-XVIII, Nxb KHXH, H.2007, tr.306.
[21] Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trọng: Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời kỳ ở Tây Bắc. Nghiên cứu lịch sử , số 81, 1965.
[22] Lịch sử Việt Nam, tập IV, Sđd, tr.310-311.
[23] Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 2, Sđd, tr. 679-680.
[24] Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 2, Sđd, tr.684-685.
[25] Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 2, Sđd, tr.702. Sở dĩ có lệnh này vì vào năm Quang Thuận thứ 10 [1469] thời Lê Thánh Tông, nhà vua ra lệnh cấm dân gian tàng trữ binh khí riêng. Khi dẹp xong Hoàng Công Chất, Lê Duy Mật, Lưu trấn thủ trấn Hưng Hoá là Hoàng Đình Thể dâng sớ nói; “Đất nơi biên viễn, binh lính do ở nông dân mà ra. Vả lại binh khí do dân chế tạo, họ đều tự dùng để chống giữ, nay nhất luật cấm chỉ, e rằng bọn giặc cướp sẽ nhân chỗ sơ hở mà cướp bóc, thì không có gì phòng bị được”.
[26] Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 2, Sđd, tr.754-755.
[27] Đại Nam thực lục-Chính biên, tập 2, Sđd, tr.190.
[28]  Đồng Khánh địa dư chí, Sđd, tr.703-750.
[29] Cầm Trọng. Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Sđd, tr.372-374).
[30] Đại Nam thực lục-Chính biên, (Đệ tứ kỷ, Q.LIV) ghi nhận sự kiện này như sau: “Quan quân ở Quân thứ Tuyên Quang bắt sống được tướng giặc Hoàng Sùng Anh. Thống đốc Hoàng Tá Viêm đem việc tâu lên. Vua sai theo cách treo thưởng của Quân thứ Tuyên Quang thưởng 5000 lạng bạc. Còn bọn giặc ấy do quan Quân thứ Tuyên Quang cùng với quan nước Thanh tra xét nơi ấn nấp của bè lũ bọn ấy, tức phải bắt ngay. Rồi hội đồng xử lăng trì bêu đầu truyền cho Bắc Kỳ, đóng hòm đưa sang nước Thanh. Khi ấy Hoàng Tá Viêm đã đem đầu sỏ Hoàng Sùng Anh đóng hòm đưa đi dâng tù, vua không cho, sai lần lượt tù đi nơi sắp đến, chuyển giao đầu giặc theo Chỉ trước mà làm” (tập 8, Sđd, tr.135).
[31] Khâm định tiễu bình… tập I, Q.I, Sđd, tr.222.  
[32] Pierre Grossin. Tỉnh Mường Hoà Bình, Sđd, tr.60-61 và 68.    
[33] Pierre Grossin. Tỉnh Mường Hoà Bình, Sđd, tr.60-61 và 68.    
[34] Hồ sơ số 56685.

Không có nhận xét nào: