Nguồn: Brahma Chellaney, “A Water War in Asia?”, Project Syndicate, 27/11/2016.
Biên dịch: Đào Duy Tùng | Biên tập: Nguyễn Huy Hoàng
Căng thẳng liên quan đến nước đang gia tăng ở Châu Á – và không chỉ vì các yêu sách mâu thuẫn trên biển. Trong khi các tranh chấp lãnh thổ, ví dụ như ở Biển Đông, thu hút sự chú ý nhiều nhất – suy cho cùng, chúng đe dọa sự an toàn của các tuyến đường biển và tự do hàng hải, điều ảnh hưởng đến cả các cường quốc ngoài khu vực – thì hệ lụy chiến lược của sự cạnh tranh liên quan đến nguồn nước ngọt được chia sẻ giữa các quốc gia lại cũng đáng lo ngại không kém.
Châu Á có tỷ lệ nước ngọt trên đầu người ít hơn bất cứ lục địa nào, và nó đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nước mà theo một nghiên cứu của Viện Công nghệ Massachusetts thì sẽ tiếp tục tăng cao, với sự thiếu hụt nước trầm trọng dự kiến vào năm 2050. Trong hoàn cảnh mối bất hòa về địa chính trị lan rộng, sự tranh giành các nguồn tài nguyên nước ngọt có thể sẽ là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và sự ổn định lâu dài tại châu Á.
Cuộc chiến thực tế đã bắt đầu, với Trung Quốc là kẻ gây hấn chính. Thật vậy, việc Trung Quốc chiếm đoạt lãnh thổ ở Biển Đông được thực hiện cùng lúc với việc chiếm đoạt một cách âm thầm hơn các nguồn tài nguyên tại lưu vực các con sông chảy xuyên quốc gia. Tái điều chỉnh các dòng sông xuyên biên giới là một phần thiết yếu trong chiến lược của Trung Quốc nhằm khẳng định sự kiểm soát và ảnh hưởng lớn hơn của họ trên toàn châu Á.
Trung Quốc chắc chắn đang ở một vị thế thuận lợi để thực hiện chiến lược này. Nước này khống chế tuyệt đối các lưu vực sông, với 110 sông và hồ xuyên quốc gia chảy vào 18 quốc gia ở hạ lưu. Trung Quốc cũng có nhiều đập nhất thế giới, và họ chưa bao giờ e ngại sử dụng chúng để kiềm chế các dòng chảy qua biên giới. Trên thực tế, các công ty xây dựng đập của Trung Quốc đang nhắm chủ yếu vào các con sông quốc tế chảy ra khỏi lãnh thổ nước này.
Phần lớn các nguồn nước được chia sẻ quốc tế của Trung Quốc đều nằm trên Cao nguyên Tây Tạng mà Trung Quốc đã sáp nhập đầu những năm 1950. Không bất ngờ khi cao nguyên này là trung tâm mới của việc xây dựng đập của Trung Quốc. Thật vậy, Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc, được công bố năm nay, đã kêu gọi một làn sóng dự án đập mới trên cao nguyên này.
Hơn nữa, Trung Quốc vừa mới chặn dòng một nhánh của sông Brahmaputra, con sông huyết mạch giữa Bangladesh và Bắc Ấn Độ, để xây dựng một con đập trong một dự án thủy điện lớn ở Tây Tạng. Và nước này đang làm việc để ngăn đập trên một nhánh khác của sông Brahmaputra, nhằm tạo ra một loạt các hồ nhân tạo.
Trung Quốc cũng xây dựng sáu siêu đập trên dòng Mekong, con sông chảy vào khu vực Đông Nam Á nơi mà các tác động ở hạ lưu đã nhận thấy rõ. Nhưng, thay vì hạn chế xây dựng các con đập, Trung Quốc lại đang tích cực xây dựng thêm nhiều đập trên sông Mekong.
Tương tự, nguồn cung nước ở Trung Á phần lớn khô cằn đang chịu ngày càng nhiều sức ép khi Trung Quốc chiếm đoạt ngày càng nhiều nước từ sông Illy. Hồ Balkahsh của Kazakhstan đang có nguy cơ bị thu hẹp đáng kể, giống như Biển Aral – nằm trên biên giới với Uzbekistan – vốn gần như khô cạn chỉ trong chưa đến 40 năm qua. Trung Quốc cũng đang nắn dòng sông Irtysh, con sông cung cấp nước uống cho thủ đô Astana của Kazakhstan và cung cấp nước cho sông Ob của Nga.
Đối với Trung Á, các dòng sông xuyên biên giới bị suy giảm chỉ là một phần của vấn đề. Các hoạt động năng lượng, sản xuất, và nông nghiệp của Trung Quốc đang mở rộng vô tội vạ ở Tân Cương thậm chí còn có ảnh hưởng lớn hơn, bởi vì chúng đầu độc nguồn nước của các con sông xuyên quốc gia qua khu vực này bằng các hóa chất độc hại và phân bón, giống như Trung Quốc đã làm với các con sông ở khu vực trung tâm của người Hán.
Tất nhiên, Trung Quốc không phải là quốc gia duy nhất gây nên xung đột về nguồn nước. Như thể để nhấn mạnh rằng tranh chấp lãnh thổ đang xấu đi ở Kashmir cũng có liên quan đến nước bên cạnh đất đai, Pakistan đã lần thứ hai trong một thập niên khởi kiện Ấn Độ ra tòa trọng tài quốc tế theo các điều khoản của Hiệp ước sông Ấn năm 1960. Nghịch lý ở đây là Pakistan, nước ở phía hạ lưu, đã sử dụng hiệp ước đó – vốn là thỏa thuận chia sẻ nguồn nước hào phóng nhất thế giới khi dành hơn 80% lượng nước của 6 con sông thuộc hệ thống sông Ấn cho Pakistan – để duy trì xung đột với Ấn Độ.
Trong khi đó, Lào, đất nước không có biển – với mục tiêu xuất khẩu thủy điện, đặc biệt là cho Trung Quốc, chỗ dựa chính cho nền kinh tế nước này – vừa thông báo với các nước láng giềng về quyết định tiếp tục dự án đầy tranh cãi thứ ba của mình, con đập 912 MW Pak Beng. Lào trước đó đã gạt sang một bên các lo ngại trong khu vực về sự thay đổi dòng chảy tự nhiên để thúc đẩy các dự án đập Xayaburi và Don Sahong. Không có lý do gì để hy vong một kết quả khác vào thời điểm này.
Những hệ quả của việc gia tăng cạnh tranh nguồn nước ở Châu Á sẽ có ảnh hưởng vượt ra ngoài khu vực. Một số quốc gia châu Á lo lắng về an ninh lương thực đã thuê những vùng đất rộng lớn ở vùng châu Phi hạ Sahara, gây ra những phản ứng tiêu cực mạnh mẽ ở vài khu vực. Năm 2009, khi Công ty Hậu cần Daewoo (Daewoo Logistics Corporation) của Hàn Quốc đàm phán một thỏa thuận để thuê gần như một nửa vùng đất có thể canh tác thuộc Madagascar nhằm sản xuất ngũ cốc và dầu cọ cho thị trường Hàn Quốc, các cuộc biểu tình và can thiệp quân sự diễn ra sau đó đã lật đổ một vị tổng thống được bầu lên một cách dân chủ.
Cuộc đua chiếm đoạt các nguồn nước ở châu Á đang kìm hãm ngành nông nghiệp và ngư nghiệp, hủy hoại các hệ sinh thái, và làm gia tăng sự thiếu tin tưởng và bất hòa đầy nguy hiểm trong khu vực. Điều này cần phải chấm dứt. Các nước châu Á cần làm rõ các toan tính chính trị ngày càng mờ ám liên quan đến nguồn nước. Vấn đề then chốt sẽ là các cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả và thỏa thuận về các dàn xếp chia sẻ nguồn nước minh bạch hơn.
Châu Á có thể xây dựng một hệ thống quản lý nguồn nước hài hòa, dựa trên luật lệ. Nhưng nó cần Trung Quốc tham gia. Ít nhất là cho đến nay, điều đó dường như vẫn không có khả năng xảy ra.
Brahma Chellaney, giáo sư ngành nghiên cứu chiến lược tại Trung tâm Nghiên cứu Chính sách ở New Delhi và nghiên cứu viên tại Học viện Robert Bosch ở Berlin, là tác giả của chín cuốn sách, trong đó có Asian Juggernaut, Water: Asia’s New Battleground và Water, Peace, and War: Confronting the Global Water Crisis.
Copyright: Project Syndicate 2016 – A Water War in Asia?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét