Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2016

Biển Đông: Hãy suy nghĩ như ông Tập Cận Bình

Diễn tiến lằng nhằng phức tạp của biển Đông buộc người ta phải đặt câu hỏi: thực sự người Trung Quốc đang nghĩ gì? và muốn gì? Và người lãnh tụ hạt nhân của nước CHND Trung Hoa phải dành những đêm mất ngủ cho suy nghĩ về biển Đông - nơi sẽ là điểm khởi đầu của một khúc khải hoàn trong thế kỷ mới của đất nước ông, và chính bản thân ông.

Ông Tập Cận Bình muốn tại vị thêm vài nhiệm kỳ nữa?

1. Không có Việt nam trên bàn cờ biển Đông?

Nhìn trên bình diện toàn cầu, biển Đông chỉ là một trong các vấn đề mà Trung quốc đang gặp, trên con đường thoát khỏi thế kỷ ô nhục, để trở thành siêu cường hàng đầu thế giới. Ở đây, quan hệ Mỹ - Trung dường như đang chiếm phần chính, bên cạnh sự trở mình của Nhật bản, ánh mắt e dè từ Ấn Độ, Australia hay các quốc gia Tây Âu già cỗi đang mong còn chút thể hiện chút ảnh hưởng tại vùng biển sôi động này. ASEAN, một thực thể quặc quẹo, đang vật vã trong cơn đau tự khẳng định vai trò của mình, tự nó chẳng phải là một vấn đề. Trong cuộc đối đầu với chiến lược xoay trục châu Á của tổng thống Obama, có vẻ Tập chủ tịch đã ghi điểm trước. Bất chấp phán quyết của tòa Quốc tế The Hague về biển Đông, thái độ kiên định phớt tỉnh luật pháp quốc tế đã có những thành công bước đầu. Những động thái nhún nhường gần đây của Philipin, Malaysia, thái độ một chiều của Campuchia cho thấy củ cà rốt cộng với món bắp cải trộn salami trên biển Đông đã phát huy tác dụng.

Với tổng thống Donald Trump, cuộc gặp Kissinger mới đây, nhằm đào mộ thông cáo Thượng Hải, mà đã mở ra con đường để nước Trung Hoa phát triển thoát khỏi thế lưỡng đầu thọ địch kể từ năm 1972, chắc chắn đang lởn vởn trong giấc mơ của Tập chủ tịch. Một cuộc đổi chác trên bình diện toàn cầu sẽ là điều mà cả hai nhà lãnh đạo phải nhắm tới. Bề ngoài có vẻ khó nhằn hơn, đối với vị tổng thống xuất thân thầu khoán kiêm bầu sô, vấn đề thật ra giản dị hơn nhiều. Mối lo về tự do hàng hải ư: Trung Quốc sẽ đảm bảo một cơ chế phối hợp quốc tế, trong đó vai trò của Mỹ và các nước phát triển là rất quan trọng, để ổn định bền vững mạch máu thương mại này. Tranh chấp nguồn lợi biển và thềm lục địa ư: gác tranh chấp, hợp tác cùng khai thác. Nếu muốn khai phá nguồn lợi thềm lục địa tại đây, các công ty dầu khí Mỹ liên kết với Petrochina sẽ có lợi hơn nhiều, nếu so với việc hợp tác với Việt Nam, khi phải e dè sự quấy phá từ phía Trung Quốc. Trong thời điểm giá dầu thấp hiện nay, cùng với việc đã nắm được công nghệ khai thác dầu biển sâu, ai có thể qua mặt Trung quốc tại đây? Tương tự là việc hợp tác khai thác nguồn lợi hải sản, ưu thế của hạm đội đánh cá của Trung Hoa Nam Hải tại đây là quá rõ ràng. Nếu cần trả giá: đình hoãn vô thời hạn việc lập vùng nhận dạng phòng không trên biển Đông, rút bớt các vũ khí tấn công hạm đội đang bố trí tại đây. Thậm chí nếu cần thêm: mở thêm cửa thị trường Trung Quốc, hạn chế lao động trẻ em, cải thiện điều kiện lao động, mở rộng có mức độ quyền lập hội, bạch hóa vụ Khí luân công, hứa hẹn phối hợp giải quyết vấn đề an ninh mạng và gián điệp đánh cắp thông tin, chia sẽ gánh nặng khí thải toàn cầu, ngay cả chính sách điều chỉnh tỷ giá đồng yuan cởi mở hơn theo cách nhìn của người Mỹ...

Mục đích tối hậu của Tập chủ tịch: thái độ công nhận de facto sự hiện diện của lá cờ Trung Hoa tại các thực thể đá tại biển Đông. Và đằng sau đó là sự thừa nhận ảnh hưởng của Trung Quốc tại đây, bước đầu của việc thừa nhận vùng ảnh hưởng của Trung quốc tại Tây Thái bình Dương, một điều rất hiển nhiên theo quan điểm của ông Tập. Chỉ cần đừng làm người Mỹ quá mất mặt là được.

Vấn đề còn lại, chỉ là thời điểm thích hợp. Cho một sô diễn ngoạn mục, với cây đinh là một cục xương to, bôi thật nhiều mỡ béo thơm lừng, xong. Và tổng thống Trump sẽ ca khúc khải hoàn về nước Mỹ, với một thứ dạng như "bản hiệp ước hòa bình và phát triển cho biển Đông" trên tay, và một túi đầy những cục xương to, dán nhãn "quyền lợi Mỹ". Thời điểm thích hợp nhất có lẽ là năm 2018.

Hoàn hảo cho một cái bánh to nhãn hiệu Munich ver 2. 0. Chỉ thiếu một cái nhân: Việt Nam.

2. Nếu đại cục đã được xử lý trên bình diện quốc tế, chủ yếu trong khuôn khổ mối quan hệ Mỹ - Trung, thì chuyện Việt Nam có lẽ chỉ là tiểu cục. Vấn đề là giới lãnh đạo Việt nam nghĩ gì về biển Đông?

Một cách chính thức, biển Đông được ghi nhận trong cương lĩnh của ĐCS lẫn chiến lược an ninh quốc phòng của đất nước như là một phần không thể chia cắt của lãnh thổ Việt Nam. Dưới ánh sáng của phán quyết tòa án The Hague, sẽ có những vấn đề mới được đặt ra. Tuy nhiên, cũng giống như các đồng nghiệp Trung Quốc, các nhà chính trị chủ chốt Việt Nam vẫn xem xét vấn đề dưới góc độ thềm lục địa của các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Không mở rộng đến mức lợi ích cốt lõi thông qua đường chín đoạn như nhà họ Tập, người Việt đánh giá những ưu thế về lịch sử thông qua việc chiếm hữu các thực thể nổi, chìm tại đây là điểm mấu chốt thể hiện khái niệm lãnh thổ Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Và do đó, các sự kiện chiếm đóng của Trung quốc năm 1974 và 1988 là hành vi xâm lược, mà do bởi thực tế khách quan lúc đó, đã không được Việt Nam đáp trả tương xứng. Vấn đề là liệu điều này có được phép lặp lại, trong một tương lai gần?

Trái với quan điểm của các nhà đối lập luôn tận dụng vấn đề biển đảo để quấy đảo đời sống chính trị ở Việt nam, nhận thức này đang là suy nghĩ chủ đạo của giới chóp bu Hà Nội, và cũng không phải mới gần đây. Việc nhìn nhận chính thức - trong bản Hiến pháp cũ 1980 - rằng Trung quốc là kẻ thù nguy hiểm nhất của Việt Nam là một minh chứng rõ ràng cho điều này. Những cố gắng hòa dịu giữa hai quốc gia cộng sản này, bắt đầu từ hội nghị Thành Đô - bên cạnh mong muốn co cụm về ý thức hệ để chống đỡ trào lưu sụp đổ của khối Warsovie trong thập kỷ 90 thế kỷ trước - còn thể hiện mong muốn, ít nhất là từ phía Việt Nam để có một "khoảng thở" trước sức ép tham lam của người láng giềng. Tận dụng cửa sổ này để thoát khỏi sự cô lập về chính trị và gánh nặng quốc phòng, Việt nam đã lách qua một giai đoạn khó khăn nhất để phát triển như ngày nay. Cái giá phải trả không hề rẻ, thiệt hại về kinh tế (nhập siêu toàn tập, phá hoại kinh tế, khủng hoảng môi trường... ) tổn thất về danh dự (phản bội xương máu nhân dân... ), chịu lấn ép nhục nhã về chính trị (điển hình là vụ bị từ chối tiếp xúc khi xin trao đổi trong cuộc khủng hoảng dàn khoan 2015... ). Phải chấp nhận đánh đổi lấy hòa bình để phát triển.

Chỉ có một câu hỏi: tại thời điểm hiện nay, trong mối quan hệ hòa dịu bất tương xứng này, đâu là giới hạn của sự nhẫn nhục của Bộ Chính trị ĐCS Việt Nam?

Câu trả lời cứng: khi chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm. Cụ thể:

• Các thực thể nổi, chìm do Việt nam thụ đắc ở Trường Sa bị tấn công bằng lực lượng vũ trang, chủ yếu do hải quân và không quân Trung Quốc, và hầu như chắc chắn bị chiếm đóng.

• Biên giới và lãnh thổ trên bộ của Việt nam bị xâm phạm.

Ngoài hai tình huống cứng như trên, các hoạt động khác của Trung Quốc không chắc sẽ nhận được phản ứng thích đáng từ giới lãnh đạo Việt nam, theo lối suy nghĩ chủ quyền và độc lập dân tộc đã bị xâm phạm - như kinh nghiệm gần đây đã chỉ ra. Việc cải tạo, thành lập các đơn vị hành chính, bố trí lực lượng quân sự tiến công tại các thực thể mà Trung Quốc chiếm đoạt từ Việt nam trong các năm 1974 và 1988, cũng như lấn ép giành giật các quyền lợi về kinh tế như tranh đoạt ngư trường, thăm dò và khai thác dầu khí, hay thậm chí tuyên bố vùng nhận dạng phòng không trên biển Đông... các món bắp cải trộn salami này vẫn còn được các vị lãnh đạo Cộng sản Việt Nam dung nạp tốt.

Nhưng, trong một tình huống cứng cụ thể - dù muốn hay không - bộ sậu lãnh đạo của ĐCS Việt Nam phải thể hiện lập trường dứt khoát về biển Đông trước nhân dân. Lúc đó, phải thật sự rất ngớ ngẩn mới dám tuyên bố kiểu như phải giữ vững ổn định chính trị để tiến hành Đại hội đảng, hay để chuyện này cho con cháu lo!!!

Vậy, không hòa được thì đánh. Trong tình huống này, như lịch sử đã nhiều lần chứng minh, bất kể là do giới nào lãnh đạo, người Việt sẽ nhanh chóng chuyển các điểm yếu của mình thành lợi thế, và sẽ khai thác mạnh mẽ các vấn đề của đối phương. Vốn liếng thì vẫn vậy, sự hy sinh của nhân dân, sự lỳ lợm đến mức phi lý trí, vũ khí phi đối xứng và trường kỳ kháng chiến.

Không cần phải thông thuộc kinh sử, Tập Cận Bình cũng học được bài học này. Duy trì một tình trạng đối đầu trực tiếp về quân sự kéo dài trên biển Đông sẽ là một sự tự sát về chính trị, trong hoàn cảnh đang có nhiều chống đối kế hoạch cải tổ trong nội bộ của chính ông. Tận dụng các ảnh hưởng từ các thế lực cường quốc trên thế giới, để đưa Việt Nam ngồi vào bàn đàm phán cho hiệp ước hòa bình về biển Đông? Món Munich ver 2.0 khó mà ra lò nổi, nếu nhớ đến kỹ năng vừa đánh vừa đàm của người Việt. Và kẻ nào ký xong bản hiệp ước này sẽ lập tức theo chân các bậc tiền bối như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống sang tá túc Bắc Kinh ngay.

Không cứng được thì mềm vậy. Trên thực tế, Trung Quốc đã và đang áp dụng đường lối xâm lược mềm, với việc xuất khẩu không chỉ thực phẩm nhiễm độc, đồ dùng chất lượng thấp, văn hóa từ phim ảnh cho đến Khổng giáo sang Việt Nam. Trong khi đã có những thành quả đáng kể từ những hoạt động này, chắc chắn còn rất lâu mới đạt được một hiệu ứng nô dịch theo kiểu lượng biến thành chất mà họ Tập mong muốn. Trên biển Đông, các hoạt động gây căng thẳng kéo dài và tăng dần, thông qua lực lượng chấp pháp, hoặc dân quân biển, hoặc lấn chiếm, bồi đắp, mở rộng và quân sự hóa các thực thể đá tại đây... ghi được điểm đầu về việc tạo ra vấn đề, song không thể đặt dấu chấm hết cho câu chuyện. Cả hai bên đang trung thành với đường lối trì cửu chiến của Mao chủ tịch. Hơn thế nữa, lịch sử chỉ ra rằng lũ đàn em này cũng chính là bậc thầy trong nghệ thuật ẩm thực kiểu này. Việc mất 4 năm để đàm phán về hình dáng của cái bàn trong hội nghị Paris từ 1968 - 1972 là một loại ví dụ điển hình của các đệ tử môn "trì cửu chiến". Vấn đề là ai sẽ mất kiên nhẫn trước?

Trong khi vẫn là người nắm quyền chủ động, có thể gia giảm cường độ áp lực tùy thời điểm và tình huống cụ thể, không thể không nhìn thấy những áp lực - chủ yếu từ nội bộ ĐCS Trung Quốc - lên ông Tập. Cuộc đấu "đả hổ diệt ruồi" diễn tiến kéo dài, mức độ tập quyền vẫn chưa được như mong muốn của ông, sự chống đối ngấm ngầm, đặc biệt từ địa phương... Đối ngoại, việc chuyển từ vai trò "cha Tập mẹ Bành" sang một nhà đàm phán không hề là thế mạnh, và đây sẽ là điểm yếu chí tử của ông, mà các đối thủ trong nước không dễ gì bỏ qua. "Sự cố" phán quyết của tòa quốc tế The Hague vừa rồi là một đòn nặng giáng vào uy tín của chính quyền Trung Quốc - điều này ai cũng biết; nhưng chắc chắn ít người đánh giá được tổn thất về uy danh của nhà lãnh đạo cốt lõi thế hệ thứ tư đối với các đảng viên và nhân dân trong nước qua vụ này. Những xầm xì trong giới chóp bu về sự thiếu kinh nghiệm đối ngoại của ông giống như muỗi chích, không nguy hiểm nhưng rất khó chịu. Vậy có cần phải có những thành công ngoạn mục nào đó trong vấn đề biển Đông hay không?

Ở góc nhìn bên kia, sau khi tiêu hóa quá nhiều món bắp cải trộn salami kiểu Tàu, những nhà lãnh đạo Việt Nam đang cảm thấy như thế nào?

Nói cho cùng, chứng khó tiêu khi dùng quá nhiều món salad Tàu đã thể hiện thành bệnh lý, chủ yếu là phản ứng giận dữ từ người dân - vốn đang được các nhà đối lập tận dụng tối đa - nhưng cũng là những câu hỏi hóc búa mà Bộ Chính trị phải trả lời trong các kỳ đại hội để thể hiện tính chính danh của mình trước các Đảng viên. Phản ứng mạnh miệng của vị cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc khủng hoảng dàn khoan vừa rồi rõ ràng không phải là do buộc miệng. Vấn đề là, chứng viêm đại tràng mãn tính này lại có thể là nguồn cơn của căn bệnh ác tính: ung thư.

Có những dấu hiệu cho thấy giới chóp bu Việt nam đang thay đổi dần nhận thức, từ việc dựa chủ yếu vào chính sách đi dây, đàm phán ngoại giao thông qua các thực thể kém hiệu quả như Asean, dựa trên các bộ quy tắc ứng xử quốc tế... chuyển sang việc lặng lẽ tăng cường năng lực phòng thủ bất đối xứng, mở rộng đối ngoại quốc phòng sang những kênh phi truyền thống, và chuẩn bị dư luận trong Đảng. Trong những tháng gần đây, rất ít nghe giới truyền thông nhắc tới các bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông. Có vẻ người Việt cũng đang thích ứng với trò chơi "trì cửu chiến" trên biển, họ chọn lựa thái độ kiên quyết không bị khiêu khích để rơi vào thế phải khai chiến trước, nhưng cũng sẵn sàng ra đòn đủ đau để làm nguội bớt những cái đầu nóng; luôn hô hào tham gia một cuộc đàm phán lòng vòng, đủ các cấp độ, không song phương mà cũng chẳng đa phương, mà kết quả chỉ là tuyên truyền quan điểm cho nhau; sử dụng Cam Ranh như một mồi nhử cho bên này, và nút chặn để hù dọa bên kia... Một loại học trò xuất sắc của một nền Khổng giáo phương Đông hủ lậu! ! !. Mục tiêu: duy trì nguyên trạng. Nếu không duy trì nguyên trạng được thì chẳng ai được lợi ích gì từ đây. Và sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế toàn cầu trong đó dĩ nhiên Trung quốc sẽ chịu ảnh hưởng nặng. Mục đích tối hậu: Đợi.

Chọn cứng hay mềm, nhà lãnh đạo cốt lõi nước Trung Hoa trong thế kỷ 21 cũng phải hết sức thận trọng, tránh sa lầy trên biển Đông.

Biển Đông, dưới con mắt họ Tập, chắc chắn không thể là một vũng lầy. Nó cũng không phải là một con đường, một vành đai, một biển, hay thậm chí một đại dương. Giấc mơ Trung Hoa vĩ đại đòi hỏi - trong công cuộc phục sinh đế quốc Trung tâm thế giới mà thế kỷ đang đặt lên vai ông - một chiến thắng toàn vẹn, một sự thần phục hoàn toàn, một sự nhìn nhận của cả thế giới, một sự chứng minh cụ thể về sự vươn mình trở thành siêu cường của đế quốc thần thánh. Và không thể có cách nhìn nhận nào khác. Tuyệt đối không.

Trong cái nhìn này, biển Đông chính là Việt Nam. Trong ván cờ này, nền độc lập dân tộc của Việt Nam sẽ là con át, chứ không phải là tài nguyên dầu khí, hải sản, vị trí địa chính trị, cuộc chống bao vây phong tỏa "kiểu xoay trục" hay quyền lợi tự do hàng hải của cả thế giới còn lại, bao gồm cả nước Mỹ. Vì vậy, vấn đề tranh chấp biển đảo - nói theo kiểu người Việt Nam, hay đường chín đoạn - kiểu người Trung Hoa, chỉ là diện của một vấn đề mà điểm chốt phải nằm ở Hà Nội.

Vì vậy, đột phá ở biển Đông sẽ xảy ra chỉ ở Hà Nội. Và thời điểm? Đại hội đảng giữa nhiệm kỳ sắp tới, khi mà tổng bí thư ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng - theo những thảo thuận ngầm mà ai cũng biết - phải bàn giao chức vụ cho ai đó.

Don Juan

(Dân Luận)

Không có nhận xét nào: