“KHI NHÀ VĂN BUỘC PHẢI CẦM BÚT THAY THẾ CHO NHÀ VIẾT SỬ THÌ ĐẤT NƯỚC ĐÓ ĐÃ BẮT ĐẦU ĐIÊU LINH”! (Sử gia Yamamoto Tatsuo Nhật Bản)
Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2018
ĐẢNG CS TRUNG QUỐC GIÀNH CHÍNH QUYỀN ĐỂ GIẾT DÂN
Tháng 7/1958, sản lượng lúa sớm của hợp tác xã nông nghiệp Trường Phong, tỉnh Hồ Bắc lên tới 15.361 cân/mẫu; tới tháng 10, Thiên Tân nhật báo viết trong ruộng thí điểm lúa nước tại thôn Tân Lập, khu Đông Giao, thành phố Thiên Tân, sản lượng lúa đạt tới 12 vạn cân/mẫu; lại nói, hạt lúa ngoài đồng dày tới mức người có thể ngồi lên được, mời quần chúng tới tham quan.
Các địa phương thi nhau thổi phồng sản lượng, tạo thành cuộc đua trong phong trào “Đại nhảy vọt”, sản lượng cứ nâng thành hàng ngàn, hàng vạn cân trên một mẫu. Dù trong tâm ai cũng biết đấy chỉ là giả, nhưng bề mặt thì rất vui vẻ vì đã thực hiện đúng như yêu cầu của “Đại nhảy vọt”, đúng chỉ thị của Mao Chủ tịch.
Thế nhưng, sản lượng thu hoạch là giả mà mức trưng thu là thật. Tỷ lệ trưng thu lại tính trên sản lượng thu hoạch vì thế mà người dân bị trưng thu hết sạch lương thực. Trong khi đó, về mặt công nghiệp,”Đại nhảy vọt” đã yêu cầu mọi người ở Trung Quốc phải tham gia luyện thép, buộc nông dân phải bỏ cả hoa màu thối rữa ở ngoài đồng. Đã thế, các quan chức ở các khu vực lại còn tăng thuế suất trên sản lượng hoa màu.
Nạn đói khiến hàng triệu người chết. (Ảnh: Internet)
Khi phần lương thực ít ỏi còn lại hết thì nạn đói xảy ra, thây chết đầy đồng. Cuốn “Những sự thật khủng khiếp về nạn đói lớn cuối những năm 1950″ mô tả: “Từ tháng 11/1959 – 12/1959, người chết rất nhiều. Chỉ cần nghĩ lại cũng đủ rớt nước mắt. Cụ già chết đói, phụ nữ chết đói. Đem người nấu ăn, cắt thịt rồi nấu… điều gì cũng chẳng nghĩ, điều gì cũng chẳng sợ, chỉ muốn ăn, muốn sống. Từ bên ngoài tới thôn giết người để ăn cũng có. Tư tưởng khi ăn thịt đứa bé nhà mình thật bi thảm, ăn rồi mới hối hận, tự mình hận chính mình”.
Cái đói khiến người ta phải ăn cả thịt đồng loại để sinh tồn, cuốn “Quỷ đói – Tiết lộ nạn đói lớn thời Mao” mô tả: “Tại huyện Cố Thủy, tỉnh Hà Nam với 90 vạn nhân khẩu, nhà nước ghi lại có 200 vụ ăn thịt người; văn kiện nội bộ Đảng ghi lại một công xã nhân dân tại Phượng Dương có tới 613 vụ ăn thịt người. Trên thực tế, các vụ ăn thịt người cũng xuất hiện tại Tứ Xuyên, Cam Túc, Thanh Hải, Tây Tạng, Thiểm Tây, Ninh Hạ, Hà Bắc, Liêu Ninh, gần như khắp toàn quốc”.
Trước việc nông sản bị trưng thu sạch, người dân lúc này mới nghĩ ra cách giấu số lương thực để tránh bị trưng thu. Thế là xuất hiện “xã đoàn chỉnh đốn 1 ngàn người”, “đại hội đấu tranh 1 vạn người”. Một người Trung Quốc là ông Trương Thượng Chất nhớ lại cảnh tượng này: “Cái ‘xã đoàn chỉnh đốn 1 ngàn người’, ‘đại hội đấu tranh 1 vạn người’ này thực sự là phát điên phát rồ, làm xằng làm bậy! Chúng tới nhà dân lục tung cửa nhà, đào tường khoét vách chỉ để tìm lương thực. Chúng hoàn toàn biến thành một bầy dã thú, đem phụ nữ không giao lương thực lột hết quần áo, dùng dây thừng buộc vào âm mao lôi đi diễu phố thị chúng!… Hoặc là bị chỉnh đốn đến chết, hoặc là bị đói chết, chỉ có thể chọn một trong hai. Có người bị trói sống mà chết, bị treo cổ mà chết, hoặc bị đánh đến chết. Rất nhiều người có lương thực mà không dám ăn, có rau dại mà không dám hái, có đường mà không dám chạy, chỉ có thể ngồi đó chết đói… Đây là kỳ quan tự cổ chí kim! Kỳ quan tự cổ chí kim! Chính là tội ác diệt tuyệt nhân tính. Đương thời, tổ công tác ghi lại có 128 loại!”.
Những gia đình phải bán con, những đứa trẻ bị phình bụng vì ăn lá cây, và những cái xác chết đói trên đường phố…(Ảnh: Internet)
Từ năm 1959 đến năm 1961 có 40 triệu người dân Trung Quốc bị chết đói thê thảm vì thiếu lương thực; trong khi lương thực được ĐCSTQ xuất sang Liên Xô để thu về vũ khí và bom nguyên tử. Số phận người nông dân, Đảng mặc kệ.
Nỗi sợ từ cơn bão trưng thu nông sản ngày nào ám ảnh qua từng thế hệ đến nỗi người Trung Quốc ngày nay dù dư giả vẫn thể hiện ra sự đói khát, thiếu thốn. Tâm lý giành giựt, luôn cảm thấy bất an, lo lắng bị lừa gạt, bị cướp trắng tài sản.
2. Tiêu diệt giới tinh anh ở thành thị
Nếu như ở nông thôn, ĐCSTQ phân ra giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ nhằm tiêu diệt giới tinh anh thì ở thành thị, ĐCSTQ cũng thực hiện tương tự.
Trong cuộc “Cải cách Công thương”, ĐCSTQ phân ra giai cấp công nhân và giai cấp tư sản: Giai cấp công nhân là những người vô sản và bị bóc lột, còn giai cấp tư sản là những kẻ bóc lột. Đảng tuyên truyền rằng giai cấp tư sản là kẻ xấu; cho rằng giai cấp tư sản sinh ra là để bóc lột mãi cho đến khi nó bị diệt vong; vì bóc lột là bản chất nên chỉ có thể đánh đổ chứ không thể cải tạo được. ĐCSTQ tuyên truyền rằng cướp lấy hết tài sản của họ là đúng đắn và cần thiết.
Những người mà ĐCSTQ xem là giai cấp tư sản ấy đều là giới tinh anh giàu có ở thành thị, họ có quan điểm và tiếng nói của mình, hiểu rõ cái gì đúng và sai nên không dễ mà thuận đi theo Đảng, vì thế mà ĐCSTQ muốn dùng “đấu tranh giai cấp” để tiêu diệt những người này.
Con trai của một cựu thư ký Đảng ở tỉnh Hắc Long Giang, bị bức hại vào tháng 11/1968. (Ảnh qua nybooks.com)
Những tinh anh tại thành thị bỗng trở thành kẻ bóc lột, kẻ xấu, thành đối tượng bị đả đảo. Họ bị bắt buộc phải giao nộp lại toàn bộ tài sản. Nhiều người không chịu được sự nhục nhã đã tự tử. Một người tham gia “Cải cách Công thương” là Trần Nghị (sau này trở thành Thị trưởng Thượng Hải) mỗi ngày đều hỏi: “Có bao nhiêu lính dù hôm nay?”, ý nói đã có bao nhiêu người bị khép vào giai cấp tư sản nhảy lầu tự tử.
Theo số liệu trong “Phong trào chính trị trong lịch sử ĐCSTQ từ khi kiến quốc” xuất bản năm 1966, có hơn 323.000 người bị bắt trong phong trào “Tam phản Ngũ phản” (Tam phản là thanh trừng nội bộ, Ngũ phản là cướp và giết tư bản), hơn 280 người tự sát hoặc mất tích; có hơn 5.000 người bị liên lụy và hơn 500 người bị bắt trong “phong trào chống Hồ Phong”, hơn 60 người tự sát, 12 người chết bất thường. Sau đó, trong phong trào “Dẹp phản động” có khoảng 21.300 người bị phán tội tử hình, hơn 4.300 người tự sát và mất tích.
Khi muốn có được sự ủng hộ của công nhân và nông dân, ĐCSTQ đã hứa hẹn trao đất cho nông dân, trao nhà máy cho công nhân, đồng thời trao cho họ quyền lực lớn nhất, tự xưng bản thân là đại diện cho “công nông”, là “đội tiên phong của giai cấp công nhân”. Thế nhưng, thực tế cho đến nay ở Trung Quốc, người giàu càng giàu thêm, nhất là các quan chức tham nhũng thì không có cách nào để biết được cụ thể tài sản của họ là bao nhiêu; trong khi đó, người nghèo lại càng nghèo thêm, và tầng lớp nghèo khổ nhất không ai khác chính là công nhân và nông dân.
Tầng lớp công nhân và nông dân không đủ chi phí để khám chữa bệnh, cùng với ô nhiễm môi trường ngày càng nặng nề do “đấu với Trời, đấu với Đất” thì bệnh tật của người dân cũng ngày càng cao. Con số thống kê cho thấy có đến 80% chi phí tài chính Quốc gia dành cho y tế chỉ để phục vụ cho 8,5 triệu quan chức, cho thấy sự bất bình đẳng cùng cực đến mức nào.
Công nhân và nông dân suốt ngày phải lo lắng chi li cho cuộc sống hàng ngày như bệnh tật không có tiền để khám, không có nhà để ở, trẻ nhỏ không được đi học, người lớn không được an hưởng tuổi già… Đó cũng chính là kết quả mà ĐCSTQ ngầm mong muốn.
3. Tiêu diệt giới tôn giáo
Tín ngưỡng tôn giáo giúp con người sống có chuẩn mực đạo đức, có tiêu chuẩn nhận thức phân biệt tốt và xấu, khiến chuẩn mực đạo đức duy trì không bị tụt dốc. ĐCSTQ truyền bá học thuyết vô thần, vì thế đương nhiên là không chấp nhận niềm tin tín ngưỡng vào Thần cũng như văn hóa cổ truyền.
Cảnh đấu tố diễn ra bên ngoài một ngôi chùa. (Ảnh: Internet)
Năm 1950, ĐCSTQ cấm tất cả các tôn giáo không chính thức và hội kín. Đảng xem những người theo Cơ Đốc giáo, Đạo giáo, Phật Giáo, v.v. là những kẻ tuyên truyền mê tín. Các thành viên tại nhà thờ, chùa, đạo quán phải thông báo và đăng ký với chính quyền. Các thành viên nhóm tôn giáo khác phải “hối cải” vì đã tham gia vào các tổ chức này, nếu không sẽ bị trừng trị khủng bố. Những ai không tuân thủ mà tiếp tục hoạt động sẽ bị tù chung thân hoặc tử hình.
Khi đó, ĐCSTQ cũng yêu cầu trong nhà chỉ được phép treo ảnh của Mao Chủ tịch. Đối với những ai tin theo Phật Giáo thì phải xem ĐCSTQ là Phật Tổ của Phật Tổ, đối với những ai theo Đạo Hồi thì phải xem ĐCSTQ là Ala của Ala, còn đối với Phật sống của Tây Tạng thì ĐCSTQ mới là người quyết định ai sẽ là Phật sống. Tất cả đều phải thực hiện theo yêu cầu của Đảng, còn niềm tin chỉ thực hiện trên danh nghĩa mà thôi, nếu không tuân theo thì sẽ bị đàn áp đến chết.
Tượng chúa Giê-su bị phá hủy trong Đại Cách mạng văn hóa. (Ảnh qua Entire Safety)
Cuốn sách “ĐCSTQ đã khủng bố các tín đồ Cơ Đốc giáo như thế nào” cho biết, đến năm 1957, đã có 11.000 người theo đạo Cơ Đốc bị giết chết, rất nhiều người khác bị bắt giữ và tống tiền ở các mức độ khác nhau. Con số thống kê chưa đầy đủ cho thấy, trong những năm 1950, ít nhất 3 triệu người có tín ngưỡng đã bị đàn áp. Nhiều người bị giết chết vì không chịu từ bỏ tín ngưỡng.
Bằng cách tiêu diệt, đàn áp tôn giáo và yêu cầu chỉ được phép có niềm tin vào Đảng, ĐCSTQ đã đưa chính nó trở thành tôn giáo mà mọi người phải tin theo.
4. Tiêu diệt giới trí thức
Trước năm 1949, Trung Quốc có khoảng 2 triệu trí thức, nhiều người được học ở nước ngoài, nhưng tư tưởng của họ vẫn thấm đẫm văn hóa cổ truyền của dân tộc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, tức là, trước tiên phải “tu thân” rồi sau đó mới nghĩ đến “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Năm 1956, một nhóm trí thức ở Hungary đã thành lập câu lạc bộ Vòng tròn Petofi, nơi đây đã tổ chức những cuộc tranh luận phê bình chính sách của chính phủ. Nhóm này từ đó đã khuấy động lên một cuộc cách mạng trên cả nước Hungary nhưng sau đó bị lính Xô Viết đè bẹp. Sự kiện này khiến Mao Trạch Đông nhận thấy giới trí thức chính là lực lượng nguy hiểm nhất cho sự thống trị của Đảng, cần phải tìm cách diệt trừ. Thế nhưng làm sao tìm được đối tượng có ý gây trở ngại để tiêu diệt họ?
ĐCSTQ đã hứa sẽ không chụp mũ nắm tóc, không trừng trị trí thức trong phong trào “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”…(Ảnh: Internet)
Mao Trạch Đông đã kêu gọi lực lượng trí thức trong nước cần có ý kiến để “giúp đỡ Đảng tự chỉnh đốn”. Phong trào này được khuyến khích đến tận các ban ngành, cơ quan, trường học ở mọi cấp. Mao Trạch Đông “vô cùng thành khẩn” động viên các phần tử trí thức “giúp đảng cộng sản chỉnh đốn”, và gọi phong trào này là “trăm hoa đua nở”, “trăm nhà đua tiếng”. Mao Trạch Đông cũng nhấn mạnh rằng vì đây là để giúp Đảng nên Đảng sẽ không trả đũa, và các ý kiến của mọi người đều được ghi chép rất cẩn thận. Những ý kiến thẳng thắn, không che đậy và có giá trị tất nhiên đều là từ những người trí thức, là tinh anh của xã hội lúc bấy giờ.
Kết quả là Mao Trạch Đông đã xếp họ vào phần tử cánh hữu, “làm chính trị” và tiến hành cuộc thanh trừng vô cùng thảm khốc. 550.000 người bị xem là cánh hữu, 270.000 người đã ra khỏi công chức, 230.000 người bị coi là “phần tử trung hữu” và “phần tử phản đảng, chống lại chủ nghĩa xã hội”. Nhiều người bị đày đến 30 năm tới những nơi xa xôi của đất nước, nhiều người khác bị đi tù, có người phẫn uất cùng đường mà tự tử.
Nhiều nông trường được lập ở những nơi xa xôi cốt yếu là để đày đọa giới trí thức. Sau đó, rất nhiều thảm trạng đã xảy ra; ví như nông trường ở biên giới Cam Túc, có 3.000 người bị cải tạo thì chỉ có 400 người trở về, 2.600 người được cho là bị bệnh mà chết – thực ra là bị đày đọa đến chết.
Khi có người hỏi Mao Trạch Đông sao mà nghĩ ra được “âm mưu” như thế, thì Mao Trạch Đông trả lời rằng: “Không phải âm mưu, mà là ‘dương’ mưu, làm công khai đấy chứ”.
Tiếp sau sự lật lọng đó còn có các cuộc vận động như “giãi bày tâm sự với Đảng”, v.v. để xem còn có ai có ý kiến gì khác với đường lối của Đảng không. Những người đó sẽ bị xem là “chống Đảng”. Các cuộc vận động kiểu như thế khiến người Trung Quốc khi phát biểu gì cũng hết sức cẩn thận nếu không sẽ bị xem là “chống Đảng”, “làm chính trị”, “phản động”. Mặt khác, từ đó người Trung Quốc hình thành một thứ tư duy là bất kỳ ai có ý kiến khác đi với đường lối của Đảng thì liền nói ngay “anh đang làm chính trị à”, “đó là tư tưởng phản động”, “đó là tư tưởng chống Đảng” hay “anh dám chống lại Đảng à”, v.v…
Tư sản, doanh nhân, nghệ thuật gia, hay giáo viên, tất cả đều từng nhận lấy kết cục thảm hại trong các cuộc vận động…(Ảnh qua Free Republic)
Phần còn lại của cái gọi là giới trí thức Trung Qốc ngày nay thì chia làm hai bộ phận: Một bộ phận bị khuất phục và hoàn toàn đi theo Đảng, làm bất cứ việc gì Đảng yêu cầu bất kể đúng sai; Bộ phận hiểu chuyện còn lại thì tách khỏi các vấn đề của xã hội, trở nên câm lặng trước vận mệnh của đất nước để giữ an toàn cho bản thân và gia đình.
Đón xem kỳ sau: Mục đích thật sự của các cuộc vận động đẫm máu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét