Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

Báo Nga: “Người Nhật đã được phép tấn công Trung Quốc”; Báo Nga: Đánh Mỹ, hải quân TQ sẽ trắng tay; Mỹ-Nhật đại chiến Trung Quốc ở Senkaku và kịch bản khủng khiếp nhất: 2 bên dùng bom hạt nhân...; Mỹ “hợp binh” dàn trận trùng điệp, tàu ngầm Trung Quốc khó thoát bị tiêu diệt; Trung Quốc trở thành ‘cường quốc ngỗ nghịch’; Nhật “tuốt kiếm” sẵn sàng tiêu diệt hải quân Trung Quốc

(Bình luận quân sự) - Ngày 18/7, Tờ “Svobodnaia Pressa” (SV-Nga) đã cho đăng bài với tiêu đề trên, xin dịch lại để giới thiệu cùng bạn đọc (có sắp xếp lại để tiện theo dõi).

Mục đích là để cung cấp thêm một cách nhìn từ một hướng khác về cùng một vấn đề.
Phần một: Lời dẫn của Ban biên tập
“Nhật Bản vừa tiến hành một bước đi tối quan trọng trong việc mở rộng thẩm quyền của Lực lượng phòng vệ nước này. Ngày thứ năm 16/7/2015, Hạ viện Nhật Bản đã thông qua một gói các điều chỉnh trong lĩnh vực quốc phòng cho phép Lực lượng quân sự nước này quyền sử dụng sức mạnh của mình ở nước ngoài.
Lần đầu tiên kể từ sau thất bại của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Lực lượng phòng vệ Nhật Bản có quyền sử dụng vũ khí trong trường hợp đối mặt với khiêu khích quân sự, để bảo vệ các nước bạn bè kể cả trong trường hợp Nhật Bản không bị tấn công. Thêm nữa, điều khoản cấm các quân nhân Nhật Bản mang vũ khí trong các chiến dịch của Liên Hợp Quốc cũng bị hủy bỏ.     
Bao Nga: “Nguoi Nhat da duoc phep tan cong Trung Quoc”
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trong phiên thảo luận Dự luật an ninh tại Hạ viện.
Người đưa ra sáng kiến trên (các điều chỉnh) là Thủ tướng S.Abe tuyên bố: “Tình hình an ninh quanh Nhật Bản đang ngày càng trở nên phức tạp. Những điều chỉnh này (trong luật) có tầm quan trọng mang tính chất sống còn để bảo vệ cuộc sống của người dân Nhật Bản và ngăn ngừa chiến tranh”.
Những mối đe dọa đối với an ninh Nhật Bản, theo quan điểm của giới lãnh đạo nước này, xuất phát từ ba cường quốc hạt nhân – Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Nga. Đồng thời, cũng theo các nhà lãnh đạo Nhật Bản thì nước này sẽ tiếp tục tăng cường và củng cố mối quan hệ với đồng minh chủ chốt của mình - Mỹ.
Bắc Kinh đã có ngay những phản ứng hết sức căng thẳng trước bước đi trên của Tokyo. “Việc Nghị viện Nhật Bản thông qua đạo luật mới về an ninh là chưa từng có tiền lệ” -  nguyên văn một trích đoạn trong Thông cáo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
Cũng trong thông cáo này, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết là Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì trong cuộc hội đàm với Tổng thư ký Hội đồng an ninh quốc gia Nhật Bản Siotaro Iati đang có chuyến thăm chính thức tại Trung Quốc  đã bày tỏ sự “quan ngại sâu sắc” và  “nhận thức cứng rắn” của Trung Quốc trước sự kiện này.        
Tại cuộc hội đàm này, ông Dương cũng nhấn mạnh: “Nhật Bản đang tăng cường sức mạnh quân sự và đã có những thay đổi đáng kể trong chính sách của mình trong lĩnh vực phòng vệ và an ninh. Không nhẽ Tokyo có ý định từ bỏ đường lối chính trị phòng thủ? Chúng tôi kiên quyết kêu gọi Nhật Bản rút ra những bài học kinh nghiệm từ lịch sử bằng một cách thức thích hợp và theo đuổi con đường phát triển hòa bình”.   
Nhưng giờ thì ngay cả “nhận thức cứng rắn” (của Trung Quốc) cũng đã rất khó có thể làm cho Thủ tướng S.Abe thay đổi quan điểm. Vấn đề tăng cường quyền hạn cho Lực lượng phòng vệ Nhật Bản, có thể nói là mũi tên đã được đặt trên dây cung. Hiện nay gói dự luật sẽ được chuyển cho Thượng viện xem xét.
Và kể cả trong trường hợp các dự án luật này không được (Thượng viện) thông qua (liên minh của S.Abe chiếm đa số trong Thượng viện – nhưng không phải là đa số áp đảo), thì về mặt nguyên tắc cũng không có gì có thể thay đổi được tình hình.
Trong trường hợp dự thảo luật được đưa quay lại Hạ viện (theo Hiến pháp Nhật thì Hạ viện có quyền ưu tiên trong quá trình thông qua các dự án luật) thì luật mới này sẽ mặc nhiên được coi là đã được thông qua sau 60 ngày kể từ ngày bỏ phiếu thông qua lần đầu tại Hạ viện. Tức là sẽ có hiệu lực vào ngày 14/9/2015 tới.      
Phần hai : Các chuyên gia Nga am hiểu về Nhật Bản trả lời các câu hỏi của “SV”.
Nhật Bản dự định đánh nhau với ai và tại sao?
1.Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản thuộc Viện Viễn đông Viện Hàn lâm khoa học Nga Valeri Kistanov cho biết ý kiến của mình về câu hỏi này như sau:
Nhật Bản chuẩn bị đánh nhau với ai thì chắc chắn là các nhà chiến lược Nhật Bản biết, nhưng để tuyên bố công khai thì nước này, như người ta thường nói, chỉ củng cố khả năng quốc phòng của mình.
Trong tốp đầu các mối đe dọa đối với Nhật Bản có:  thứ nhất là Bắc Triều Tiên sở hữu tên lửa hạt nhân, vị trí thứ hai – mối đe dọa Trung Quốc.
Một hiện tượng rất phổ biến ở Nhật Bản là thuật ngữ “mối đe dọa Trung Quốc” đã ăn sâu vào trong tiềm thức và phổ biến trong ngôn ngữ giao tiếp của các chính khách, chuyên gia, quân nhân và các nhà hoạt động xã hội nước này.
Tôi nghĩ rằng, tất cả mọi người đều hiểu: Nhật Bản tăng cường tiềm lực quân sự và mở rộng khuôn khổ hoạt động của Lực lượng phòng vệ chính là nhằm vào hướng Trung Quốc.  








Mỹ-Nhật đại chiến Trung Quốc ở Senkaku và kịch bản khủng khiếp nhất

VietTimes -- Hiện nay chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi quân đội Trung Quốc (PLA) ngày càng được trang bị hiện đại cố gắng chiếm quần đảo Senkaku/Điếu Ngư bằng vũ lực, đó là nhận định của giáo sư Peter Navarro ở Đại học California-Irvine (Mỹ) trên Strategist.
Thục Ninh - /
Hải quân Mỹ-Nhật thường xuyên tập trận chung theo nhiều kịch bản khác nhauHải quân Mỹ-Nhật thường xuyên tập trận chung theo nhiều kịch bản khác nhau
Strategist đặt câu hỏi Mỹ và Nhật Bản sẽ đáp trả ra sao trước cuộc tấn công của Trung Quốc: Rút lui, không kích hay cấm vận? Liệu có một sự đáp trả quân sự kiểu Sarajevo, một cuộc chiến thế giới giữa ba nền kinh tế lớn nhất thế giới và hai siêu cường tranh ngôi bá chủ?
Ông Navarro đã nhìn thấy viễn cảnh tương lai ở phía nam California, tại căn cứ pendleton, nơi lực lượng phòng vệ Nhật Bản thường xuyên tập trận với lính thủy đánh bộ Mỹ. Một trong những kịch bản là bảo vệ Senkaku trước một cuộc tấn công xâm lược ồ ạt của Trung Quốc.
Theo Navarro, có hai vấn đề lớn đối với quần đảo Senkaku, một về kinh tế và một về phương diện chiến lược. Về kinh tế, theo Công ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc, Senkaku có thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý xung quanh nó, không chỉ về nguồn hải sản giàu có mà còn cả trữ lượng dầu khí bên dưới lòng biển xung quanh quần đảo.
Về mặt chiến lược, quần đảo Senkaku nằm cách đại lục Trung Quốc 200 dặm, cách Keelung (Đài Loan) 110 dặm và cách đảo Ishigaki thuộc tỉnh Okinawa của Nhật Bản khoảng 100 dặm.
Trung Quốc đã trơ tráo bồi lấp trái phép, biến những bãi đá và bãi cạn ở Biển Đông thành những pháo đài trang bị tên lửa hành trình và vũ khí hạng nặng, với trung tâm chỉ huy và các sân bay dài 3.000m. Nếu rơi vào tay Bắc Kinh, Senkaku sẽ gây ra một mối đe dọa lớn cho cả Đài Loan và lãnh thổ Okinawa của Nhật Bản


Kịch bản tấn công
 Theo kịch bản tấn công kiểu Clausewitz, quân đội Trung Quốc ngày càng lớn mạnh trong bối cảnh hạm đội hải quân Mỹ thu hẹp và kinh tế Nhật bản suy thoái. Theo Navarrro, vào một thời điểm nào đó, có thể trước năm 2020, Trung Quốc có thể sẽ nắm lấy thời cơ phát động chiến tranh và đơn giản là cảm thấy đã vượt sức mạnh Mỹ.
Theo một kịch bản, ông Tập Cận Bình và lãnh đạo Trung Quốc bị sức ép lớn bởi những sự bất mãn trong nước về kinh tế trì trệ hay tình trạng ô nhiễm môi trường và sự trấn áp. Nhằm tập hợp sự ủng hộ, ông Tập ra lệnh phát động một cuộc tấn công quy mô. Hãy nhớ lại vụ Argentina đánh chiếm quần đảo Falklands của Anh năm 1982, để thấy cơ hội thành công của Trung Quốc.
Trong kịch bản “chiến tranh nhân dân” trên biển, Bắc Kinh sẽ tuyển mộ các tàu cá tiến sát quần đảo Senkaku và đặt những chuỗi bãi mìn. Trung Quốc là một trong những nước có kho mìn lớn nhất thế giới và thường xuyên huấn luyện các ngư dân rải mìn.
Còn một kịch bản khác là các công dân Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc đổ bộ trên một hạm đội tàu dân sự lên quần đảo Senkaku và cắm cờ Trung Quốc. Hãy nhớ vào năm 2012, bạo lực đã bùng phát tai hàng trăm thành phố của Trung Quốc khi Nhật Bản tuyên bố quốc hữu hóa Senkaku. Một người biểu tình Trung Quốc đã hô hào rằng: “Thậm chí nếu Trung Quốc bị biến thành bãi tha ma, vẫn cần giết chết tất cả người Nhật Bản. Thậm chí nếu như cây cỏ không mọc nổi tại Trung Quốc, vẫn cần chiếm lại quần đảo Điếu Ngư”.
Mỹ bị lôi vào cuộc chiến
Liệu Mỹ có hậu thuẫn Nhật Bản trong một kịch bản tự sát tại Senkaku theo Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật? Ngoại trưởng Hyllary Clinton đã khẳng định hồi năm 2010 rằng quần đảo Senkaku là một phần trong hiệp định này. Sau đó bộ trưởng quốc phòng Chuck Hagel và ngoại trưởng John Kerry cũng nhắc lại cam kết này.
Tuy nhiên, giáo sư Lyle Goldstein thuộc trường hải chiến Mỹ lại cho rằng Mỹ tuyệt đối không nên làm gì. “Đó chỉ là những mỏm đá chẳng quan trọng với bất cứ ai. Chúng không quan trọng với Nhật Bản. Chúng không quan trọng với Trung Quốc và chúng chắc chắn cũng chẳng quan trọng gì với Mỹ cả”.
Lính thủy đánh bộ Mỹ và Nhật Bản tập trận đổ bộ chiếm đảo
Nhưng theo chuyên gia Navarro, nếu như Mỹ đứng ngoài, một cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Trung Quốc sẽ nhanh chóng biến thành chiến tranh hạt nhân. Quân đội Nhật Bản dù bị áp đảo về số lượng nhưng có năng lực tác chiến rất tốt có thể chiếm thế thượng phong trong giai đoạn đầu của bất kỳ cuộc chiến nào. Song chính vì điểm này, tinh thần tự hào dân tộc và có thể là sự tồn vong của đảng cộng sản Trung Quốc có thể sẽ khiến Trung Quốc quyết định tấn công Tokyo.
Trong kịch bản thứ hai, đại tá T.X. Hammes ở Đại học quốc phòng quốc gia Mỹ gợi ý sử dụng loại vũ khí nhiệt áp như Nga đã từng dùng rất hiệu quả trong cả hai cuộc chiến tại Chechnya và Syria. Song vấn đề là khi Mỹ-Nhật quét sạch mọi lính Trung Quốc trên quần đảo, điều gì sẽ xảy ra tại một Trung Quốc sôi sục chủ nghĩa dân tộc cực đoan?
Vẫn còn lựa chọn thứ ba là “cấm vận” do học giả Viện Brookings là Michael O’Hanlon đề xuất: Hải quân và không quân Nhật Bản và Mỹ thiết lập một vòng vây và bỏ đói kẻ xâm lược. Giáo sư Navarro cũng lưu ý rằng, nền thương mại khổng lồ đã giúp Bắc Kinh nhanh chóng xây dựng cỗ máy chiến tranh, đồng thời giúp đảng cộng sản Trung Quốc nắm giữ được quyền lực.
Nhưng liệu ngày nay Trung Quốc có cho phép để bị hăm dọa đến thế hay không? Câu trả lời dường như là một dạng leo thang. Rất có thể là các trận mưa tên lửa đạn đạo chống hạm trút xuống các tàu Mỹ và Nhật Bản hoặc các tàu ngầm cực kỳ êm Trung Quốc mua của Nga sẽ phát động đòn tấn công ngư lôi và tên lửa hành trình.
Có nhiều kịch bản Trung Quốc có thể tấn công Senkaku và một cuộc tấn công như vậy sẽ nhanh chóng leo thang thành một sự kiện nghiêm trọng hơn nhiều.
T.N

(Thế giới) - Trong chiến lược chống ngầm của Hải quân Mỹ chống lại lực lượng tàu ngầm Trung Quốc trên các vùng nước giới hạn như Biển Đông, biển Hoa Đông, Mỹ muốn hợp tác cùng các nước trong khu vực, trọng tâm sẽ là Nhật Bản, Hàn Quốc…

Máy bay tuẩn biển chống ngầm P-8 Poseidon Mỹ
Máy bay tuẩn biển chống ngầm P-8 Poseidon Mỹ
Trên vùng biển Tây Thái Bình Dương, Mỹ lên kế hoạch liên kết phối hợp hai lượng hải quân, Nhật Bản và Mỹ. Mặc dù có một số những mâu thuẫn trong lĩnh vực này, nhưng lực lương hải quân hai nước cùng có sự quan tâm chiến lược và đầu tư ngân sách cho các hoạt động chống ngầm. Thực tế Nhật Bản nhập khẩu một khối lượng khổng lồ dầu mỏ từ Trung Đông, nguy cơ xung đột với Trung Quốc ở Senkaku có thể là một nguyên nhân khiến tàu ngầm của quân đội Trung Quốc (PLA) có thể phong tỏa tuyến hàng hải huyết mạch với nền kinh tế Nhật Bản này.
Theo thống kê của các chuyên gia nước ngoài, trong lực lượng chống ngầm của Nhật Bản có biên chế tớ 16 tàu ngầm diesel, có tới 80 máy bay chống ngầm P-3 Orion và 2 chiếc máy bay chống ngầm P-1 Kawasaki, 140 máy bay trực thăng chống ngầm SH-60J và SH – 60K. Lực lượng này phối hợp với lực lượng chiến hạm nổi Nhật Bản có thể là một lực lượng chống ngầm đáng sợ đối với Trung Quốc khi mặt trận chống ngầm được triển khai trên biển Hoa Đông.
Do lực lượng chống ngầm Nhật Bản thực sự mạnh, hải quân Mỹ – Nhật Bản cùng có mối quan tâm lớn trong sứ mệnh liên kết phối hợp hai lực lượng tiến hành các cuộc huấn luyện chiến dịch chiến thuật chung, và nâng cao năng lực sẵn sàng chiến đấu trong đội hình liên quân.
Trong những năm gần đây, do tình hình trên biển Hoa Đông và Biển Đông gia tăng căng thẳng, lực lượng Hải quân hai nước cùng thục luyện các hình thái chiến thuật chống ngầm của các binh chủng khác nhau như không quân chống ngầm, các đơn vị chiến hạm nổi chống ngầm, và hoạt động liên kết phối hợp của các tàu ngầm hai nước. Việc này có mục đích ngăn chặn khả năng đột phá vượt qua hệ thống phong tỏa chống ngầm của Mỹ – Nhật Bản trong khu vực eo biển giao nhau giữa biển Nhật Bản và biển Hoa Đông, đồng thời thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các tuyến đường vận tải huyết mạch.
Do lực lượng tàu ngầm Mỹ của Hạm đội Thái Bình Dương có nhiệm vụ then chốt ngăn chặn tàu ngầm nguyên tử Trung Quốc đi vào vùng phóng tên lửa tấn công bờ biển nước Mỹ, bản chất của các hoạt động liên kết phối hợp chống ngầm Mỹ – Nhật là lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản cùng tham gia hệ thống cơ sở dữ liệu chống ngầm Mỹ và Mỹ cung cấp các thông tin về tàu ngầm Trung Quốc, lực lượng tác chiến chống ngầm chủ yếu trên biển Hoa Đông vẫn là Nhật Bản.
Chống tàu ngầm Trung Quốc vươn ra Thái Bình Dương chủ yếu là lực lượng chống ngầm của hạm đội 7 Mỹ. Nhằm tăng cường hiệu quả tác chiến chống ngầm, Hải quân Mỹ lên kế hoạch thành lập các nhóm đặc biệt tập trung vào nhiệm vụ then chốt – tìm kiếm, theo dõi và sẵn sàng tiêu diệt tàu ngầm đối phương  khi thực hiện cuộc hải hành ra khu vực phóng tên lửa hoặc đã triển khai đội hình chiến đấu trên biển lớn.
Các đơn vị đặc biệt chống ngầm Mỹ có mục tiêu then chốt là kiểm soát và theo dõi chặt chẽ các tàu ngầm đang hoạt động trên vùng phóng tên lửa, nhưng quan trọng bậc nhất là phát hiện, theo dõi và có các biện pháp ngăn chặn ngay từ khi tàu ngầm ra khỏi căn cứ đóng quân và đang trên đường tập kết khu vực tổ chức đội hình hành quân chiến đấu. Trong điều kiện thời chiến, quá trình theo dõi chặt chẽ hoạt động của các tàu ngầm địch cho phép tiêu diệt đối phương tại thời điểm bắt đầu chiến tranh. Chính vì vậy, hoạt động theo dõi tàu ngầm đối phương sẽ buộc các tàu phải hoạt động trong vùng phòng không của các chiến hạm nổi mang tên lửa phòng không hiện đại, giảm thiểu tối đa hiệu quả tấn công bằng tên lửa đạn đạo hoặc tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân.
Các chuyên gia quân sự Mỹ cho rằng, khả năng phát hiện và tiêu diệt được tàu ngầm đối phương khi đã tập kết tại khu vực chiến đấu thực sự vô cùng khó khăn, do đó chiến thuật hiệu quả nhất sử dụng lực lượng chống ngầm là kiểm soát và theo dõi chặt chẽ các vùng nước then chốt của khu vực châu Á Thái Bình Dương, ví dụ như eo biển Tsushima, eo biển Luzon, eo biển Đài Loan, eo biển Malacca…
Chính vì vậy trên vùng nước Tây Thái Bình Dương đã hình thành hệ thống SOSUS chống ngầm Mỹ – Nhật Bản, có mục đích phát hiện, xác định và theo dõi các tàu ngầm hoạt động trong các khu vực đó, từ đó tìm ra quy luật, đặc điểm và những tính năng vật lý đặc thù của các tàu ngầm Trung Quốc, để có thể nhanh chóng tìm kiếm và phát hiện vị trí của các chiến hạm này.
Nhưng một số các chuyên gia hải quân Mỹ đưa ra nhận định, sự quan sát và theo dõi thường xuyên nào cũng có thể có lỗi. Nếu để lọt lưới một tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo hạt nhân hoặc một tàu ngầm diesel lớp Kilo mang tên lửa hành trình Club – S đến được khu vực chiến đấu, có thể là Biển Đông, điều đó sẽ đe dọa các cụm tàu sân bay tấn công chủ lực Mỹ hoặc các căn cứ quân sự Mỹ trên Thái Bình Dương. Tàu ngầm mang tên lửa hạt nhân hoàn toàn có thể đe dọa tấn công bờ biển nước Mỹ.
Như vậy hệ thống SOSUS vẫn chưa giải quyết triệt để bài toán chống ngầm của Hải quân Mỹ. Việc tìm kiếm, phát hiện và tiêu diệt tàu ngầm trong tình huống này thực sự khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian và tăng cường các phương tiện chống ngầm.
Phương án tối ưu được lựa chọn để chiến đấu chống lại tàu ngầm đối phương (Trung Quốc) là tổ chức theo dõi chặt chẽ các tàu ngầm của đối phương trong điều kiện thời bình và tiêu diệt các tàu ngầm đối phương khi xảy ra chiến tranh, làm cho các tàu ngầm đó không thể tấn công bằng tên lửa đạn đạo hoặc tên lửa hành trình.
Các chuyên gia chống ngầm Hải quân Mỹ nghiên cứu hai phương án theo dõi các tàu ngầm Trung Quốc: Theo dõi thụ động (bí mật), xác định thường xuyên tọa độ của tàu ngầm đối phương, tuyến đường hành quân, căn cứ thường trú và tất cả các thông tin liên quan, đảm bảo trong điều kiện cần thiết, có thể tấn công bất ngờ và chính xác tiêu diệt mục tiêu. Các tàu ngầm này là những tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo, tàu ngầm nguyên tử tấn công và tàu ngầm lớp Kilo mang tên lửa hành trình Club – S.
Theo dõi chủ động (công khai), phương pháp theo dõi này được sử dụng công khai đối với tàu ngầm Trung Quốc trên các căn cứ, các tuyến đường tàu ngầm đối phương xuất hiện và đi qua, thu hẹp vùng hoạt động của tàu ngầm đối phương, khiến đối phương gặp khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Chẳng hạn các chiến hạm Mỹ, các tàu thăm dò đáy biển liên tục mở sonar theo dõi các tàu ngầm của Trung Quốc trên Biển Đông, điều đó gây một cảm giác bất an và mất tự do đối với các tàu ngầm Trung Quốc, họ sẽ buộc phải bỏ những khu vực thuận lợi đã bị phát hiện để tìm đến những vùng nước phức tạp hơn, chưa bị phát hiện.
Lực lượng có thể duy trì sự theo dõi bí mật các tàu ngầm đối phương là hệ thống SOSUS cố định liên minh Mỹ –  Nhật, các tàu ngầm nguyên tử Mỹ và các máy bay chống ngầm, bao gồm máy bay chống ngầm P-8 Poseidon, P-3 Orion và các máy bay trực thăng chống ngầm trên các tàu sân bay, tàu khu trục và hộ tống hạm.
Các chiến hạm nổi, chiến hạm chống ngầm có thể thực hiện phương án công khai theo dõi tàu ngầm đối phương.
Theo một số chuyên gia quân sự, trong phương án này, trên Biển Đông, Hải quân Mỹ tìm kiếm phương án hợp tác với hải quân Việt Nam ngay từ khi Việt Nam có được các tàu ngầm đầu tiên lớp Kilo 636.1. Mặc dù số lượng tàu ngầm Việt Nam không lớn và lực lượng chống ngầm chưa được hiện đại hóa, nhưng với các hộ tống hạm Gepard 3.9 có tính năng chống ngầm cao, kết hợp với các tàu ngầm Kilo cũng là một lực lượng có khả năng theo dõi, tìm kiếm và phát hiện tàu ngầm khả nghi hiệu quả, đặc biệt khu vực mở rộng của đảo Hải Nam và vành đai quần đảo Hoàng Sa.
Một điểm khá khó khăn đối với Hải quân Mỹ là nguồn thông tin mà Việt Nam có khi phát triển lực lượng chống ngầm của mình trên vùng nước Biển Đông, do không có mối quan hệ hợp tác quân sự ở tầm cao hơn. Mỹ và Việt Nam mới giới hạn thông tin về vấn đề cứu hộ cứu nạn.
Nhiều nguồn tin cho biết, Việt Nam mong muốn có được các máy bay chống ngầm P-3 để có thể sử dụng nguồn dữ liệu chiến thuật quản lý Biển Đông. Ngược lại, phía Mỹ cũng mong muốn cập nhật nguồn thông tin chiến thuật bổ sung về tình hình dưới biển ngoài những dữ liệu tích hợp được hiện có, đặc biệt với vùng nước ven bờ.
Rào cản duy nhất hiện nay chính là giá thành P-3 Orion mà Việt Nam muốn sở hữu. Vì vậy đã có cuộc hội thảo với các nhà sản xuất chính, trong đó có Boeing tại Hà Nội trước thềm chuyến thăm của tổng thống Obama, đánh dấu bằng sự kiện lịch sử dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí sát thương và bình thường hóa hoàn toàn quan hệ với Việt Nam. Hải quân Mỹ hy vọng tương lai có thể kết hợp chặt chẽ hơn với Hải quân Việt Nam trong “chiến tranh chống ngầm” ít nhất là trong lĩnh vực “ngăn chặn thực tế” đảm bảo an ninh bờ biển Mỹ.
Trong tầm nhìn chiến lược nhằm đối phó với lực lượng tàu ngầm Trung Quốc ngày một phát triển, ngoài việc tăng cường mối quan hệ đồng minh – đối tác mở rộng mặt trận chống ngầm, tăng cường số lượng vùng nước “trong suốt” đối với tàu ngầm đối phương, Hải quân Mỹ cũng đặc biệt chú trọng phát triển các loại vũ khí khí tài tìm kiếm, theo dõi và phát hiện tàu ngầm.
Lực lượng Hải quân Mỹ sử dụng một hệ thống nhiều tuyến tìm kiếm và phát hiện tàu ngầm đối phương trong điều kiện thời bình. Quá trình tìm kiếm tàu ngầm đầu tiên là hệ thống SOSUS, sau đó tọa độ của mục tiêu được xác định bằng hệ thống  Jezebel còn được gọi là hệ thống LOFAR – (LOw Frequency Analysis and Recording) sử dụng các sonobuoy (phao gắn sonar) thụ động, có nhiệm vụ thu thập tín hiệu đặc trưng của tàu ngầm, chuyển tải thông tin về các phương tiện chống ngầm như chiến hạm nổi, máy bay chống ngầm hoặc vệ tinh, và từ đó truyền về trung tâm chỉ huy. Tuyến chống ngầm thứ ba chính xác hơn là Julie, đây là tuyến chống ngầm cuối cùng sử dụng các sonobouy chủ động, xác định chính xác vị trí tàu ngầm và bộ khí tài tìm kiếm tàu ngầm bằng thiết bị xác định độ biến thiên dị thường của tàu ngầm.

Sonobuoy AN/SSQ-47B
Sonobuoys chủ động là phao sonar tự động phát xung âm thanh (ping) vào trong nước và thu thập tiếng vọng phản hồi, rồi thông qua tần số radio UHF/VHF truyền thông tin thu thập được tới chiến hạm chống ngầm hoặc máy bay chống ngầm. Khởi điểm ban đầu hệ thống  (CASS) hoạt động liên tục trong suốt thời gian sử dụng, hiện nay sonobuoys có thể được kích hoạt hoặc tắt đi nhờ những mệnh lệnh phát ra từ những máy bay hoặc chiến hạm chống ngầm. Hệ thống Sonobuoy được phát triển thành hệ thống DICASS (Directional CASS) cho phép thu thập nhiều thông tin hơn, bao gồm tầm xa của vật thể mà sonobuoy thu được tiếng vọng. Hiện nay, máy bay tuần biển chống ngầm P-3 Orion sử dụng sonobuoy AN/SSQ-47B.

Lính Mỹ lắp sonobuoy lên máy bay P-3 Orion
Sonobuoys thụ động là các đài sonar không phát mà thu tất cả các âm thanh trong lòng nước biển, trong đó có những âm thanh đặc trưng của tàu ngầm như tiếng động cơ, tiếng va chạm sắt thép, âm thanh động cơ chân vịt tàu ngầm v.v., rồi dùng tần số UHF/VHF chuyển tải những thông tin thu nhận được tới các phương tiện chống ngầm như máy bay chống ngầm, chiến hạm chống ngầm.
Trong tương lai, Hải quân Mỹ tiếp tục hiện đại hóa các loại vũ khí, phương tiện chống ngầm hiện có và nỗ lực phát triển, ứng dụng những thành tựu đạt được vào việc làm “trong suốt” tất cả các vùng nước có nguy cơ trở thành khu vực tác chiến của tàu ngầm đối phương, trong đó có vùng nước Biển Đông.
Mỹ cũng hy vọng sẽ hợp tác với các nước đồng minh, giữ vai trò chủ đạo là Nhật Bản trong định hướng phát triển công nghệ biển khơi, đặc biệt là công nghệ tuần thám và theo dõi các tàu ngầm trên biển và đại dương.
Hiện thực hóa chiến lược “chiến tranh chống ngầm” của Hải quân Mỹ chống lại đối tượng tác chiến tiềm năng – hạm đội tàu ngầm Trung Quốc là tổ chức lực lượng chống ngầm liên minh các nước đồng minh và đối tác của Mỹ thành một hệ thống thống nhất với sự hậu thuẫn của Hải quân Mỹ mà lực lượng tác chiến chủ đạo là trên vùng nước Tây Thái Bình Dương là lực lượng chống ngầm của Hạm đội 7 Mỹ.
Cuộc chiến tranh chống ngầm trên vùng nước Biển Đông và biển Hoa Đông cần được sử dụng tất cả các phương tiện chống ngầm hiện có của lực lượng Hải quân Mỹ tại khu vực và lực lượng chống ngầm của Nhật Bản, Hàn Quốc (trong tình huống này lực lượng chống ngầm Hàn Quốc có đối tượng tác chiến tiềm năng là hạm đội tàu ngầm Triều Tiên), Úc, và các nước đồng minh, đối tác khác của Mỹ.
Để thực hiện khả năng chống ngầm hiệu quả, hải quân Mỹ xác định phương án tối ưu là “vượt trên ngăn chặn”, bao gồm sứ mệnh tìm kiếm, phát hiện và theo dõi tất cả các tàu ngầm đối phương (Trung Quốc) trên đại dương, nhưng chú trọng chủ yếu vào các vùng nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương, tạo vùng nước trong suốt đối với các hoạt động tàu ngầm của Trung Quốc để có thể tấn công tiêu diệt khi chiến trang bùng nổ.
Nhiệm vụ then chốt hiện nay của chiến lược “chiến tranh chống ngầm” Mỹ là tích hợp các lực lượng, các phương tiện chống ngầm hiện có trong biên chế và của các nước đồng minh, đối tác vào trong một hệ thống “răn đe thực tế”, nhằm kiềm chế Trung Quốc trong tham vọng vươn tới vị thế thống trị Tây Thái Bình Dương.
(Theo Viettimes)

TỪ PHÁN QUYẾT CỦA TÒA TRỌNG TÀI - BÀI 3

Trung Quốc trở thành ‘cường quốc ngỗ nghịch’

ĐỖ THIỆN thực hiện - Thứ Năm, ngày 21/7/2016 - 05:00
(PL)- Nếu vẫn tiếp tục giở giọng bất chấp trên bàn đàm phán, Trung Quốc sẽ tự biến mình thành “cường quốc ngỗ nghịch” trong mắt dư luận quốc tế.
Bình luận về tác động của phán quyết từ Tòa Trọng tài theo phụ lục VII, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) đối với cục diện ngoại giao giải quyết tranh chấp biển Đông giữa Trung Quốc (TQ) và các nước, GS Nguyễn Mạnh Hùng (ĐH George Mason, Mỹ) nhận định: Chính quyền Bắc Kinh, sau khi trúng một đòn pháp lý nặng nề vừa rồi, sẽ tìm cách vừa răn đe vừa xoa dịu đối thủ.
 Vừa mua chuộc vừa tạo áp lực...
Phóng viênThất bại trên mặt trận pháp lý (Legal Warfare), triết lý ứng xử của TQ trên mặt trận ngoại giao với Philippines và các nước tranh chấp tại biển Đông sẽ như thế nào, thưa ông?

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Phán quyết của Tòa Trọng tài hôm 12-7 là một thất bại cho TQ cả về pháp lý lẫn ngoại giao. Yêu sách đường lưỡi bò của TQ đã bị một định chế tài phán có thẩm quyền tối cao của thế giới chính thức bác bỏ vì không phù hợp với quy định của UNCLOS. Đồng thời Tòa Trọng tài cũng khẳng định TQ đã vi phạm quyền của ngư dân Philippines đánh cá trong ngư trường truyền thống. Sau khi thua trắng trong “trận chiến” pháp lý, TQ kêu gọi Philippines đàm phán song phương. Động thái này có hai hàm ý: Một là TQ muốn thông qua nói chuyện riêng với Philippines để tìm cách vừa mua chuộc vừa tạo áp lực răn đe Philippines dựa vào các công cụ kinh tế và thương mại. Hai là TQ tìm cách chia rẽ ASEAN, tách Philippines ra khỏi khả năng đàm phán tập thể giữa ASEAN với TQ.
. Dụng ý việc “vừa răn đe vừa mua chuộc” là gì khi TQ vốn đã không tham gia vụ kiện?
+ Khi đàm phán song phương với Manila, dù không muốn nhưng Bắc Kinh cũng chịu áp lực từ phán quyết của Tòa Trọng tài. Vậy nên TQ có thể chấp nhận một số nhượng bộ nhất định về tranh chấp chủ quyền, đồng thời tận dụng miếng mồi kinh tế - thương mại để xoa dịu sự lấn tới của Philippines đang tăng cao sau phán quyết phủ nhận cả đường lưỡi bò lẫn quyền lịch sử của các yêu sách TQ. Biện pháp này nếu thành công còn làm trầm trọng hơn sự chia rẽ nội bộ ASEAN cũng như trong quan hệ của Manila với Washington trong thời gian tới. Không dừng ở đó, TQ cũng tiếp tục thúc đẩy mục tiêu gây chia rẽ trong khối ASEAN thông qua các chiêu bài ngoại giao với một số ít các mắt xích rất yếu trong tổ chức này, điển hình nhất là Cambodia (với các tuyên bố chống lại phán quyết Tòa Trọng tài mới đây).


. Như vậy xét trên bình diện tổng thể, TQ có thể sẽ tận dụng những lợi thế nào trên bàn đàm phán?
+ Có ít nhất bốn “điểm tựa” để TQ nói rằng mình có quyền “nói chuyện” với các quốc gia dù nước này vừa mới thua kiện. Về chủ quan, thứ nhất, TQ sẽ căn cứ vào sức mạnh quân sự và quyền lực chính trị của nước này trong tương quan lực lượng với đối thủ và đối tác khác để tạo ra khả năng mặc cả. Thứ hai, Bắc Kinh sẽ phô diễn những khoản viện trợ, đầu tư, cho vay cũng như các mối làm ăn hấp dẫn mà thị trường TQ có tiềm năng mang lại cho các nước để “trao đổi”. Về khách quan, TQ sẽ tận dụng “khoảng trống” xuất phát từ sự thiếu thống nhất của ASEAN, chen chân vào để tìm cách chi phối. Đồng thời TQ sẽ tìm cách ru ngủ và chia sẻ quyền lực với các nước lớn để thoát khỏi ảnh hưởng của bản án từ Tòa Trọng tài.
Trung Quốc sẽ tiếp tục dùng “quân bài” kinh tế để đàm phán với Philippines hòng đạt các mục tiêu chính trị của mình sau phán quyết của Tòa Trọng tài. Trong ảnh: Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình(trái) và Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte. Ảnh: ABC.NET
Tự làm xấu mình
. Theo ông, đâu là những thách thức đáng chú ý nhất đối với chính quyền Bắc Kinh trên mặt trận ngoại giao sau khi thua kiện Philippines?
+ TQ đã tuyên bố không chấp nhận thẩm quyền cũng như phán quyết của Tòa Trọng tài. Tuy nhiên, thực tế dù muốn hay không thì TQ cũng không thể loại bỏ hay làm ngơ như không có chuyện gì tất cả những ảnh hưởng về mặt pháp lý lẫn tinh thần của phán quyết. Bất lợi của TQ là không có công lý (từ phán quyết của Tòa Trọng tài) chống lưng, không được dư luận quốc tế ủng hộ, trong khi Manila có cả hai.
. Biểu hiện của sự thất thế mà TQ gặp nếu đàm phán với Philippines và các nước tranh chấp khác là gì?
+ Giá trị pháp lý và uy tín của phán quyết từ Tòa Trọng tài còn thu hút được sự ủng hộ của nhiều nước có quyền lợi chính danh tại biển Đông (như Malaysia, Indonesia, Việt Nam,...) và những nước quan tâm đến việc thiết lập một trật tự trong khu vực dựa trên “thượng tôn pháp luật”, lấy luật quốc tế làm trọng tâm (như Mỹ, Nhật Bản, Úc,...) chứ không lấy vũ lực làm kim chỉ nam (như TQ đã làm). Như vậy, sự ưu việt của luật pháp quốc tế được các nước liên quan tranh chấp, Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ ủng hộ nên TQ sẽ phải chịu áp lực của công luận thế giới rất mạnh mẽ.
Nếu chính quyền Bắc Kinh vẫn một mực không điều chỉnh quan điểm và hành vi trên bàn đàm phán, có nghĩa là TQ sẽ tự làm xấu hình ảnh của mình trước cộng đồng quốc tế; sẽ tự biến mình thành một “cường quốc ngỗ nghịch” hành động bất chấp luật pháp quốc tế (chứ không phải một cường quốc “trỗi dậy hòa bình” như TQ thường tuyên bố - PV). TQ cũng sẽ tự cô lập mình khiến đồng minh và đối tác khu vực sát lại gần Mỹ hơn trong phân cân lực lượng trước TQ.
Đề phòng TQ tạo ra sự đã rồi
. Phán quyết của Tòa Trọng tài có đủ để chống lại một TQ bành trướng trong dài hạn? ASEAN và các quốc gia khác có ảnh hưởng tại khu vực cần lưu ý điều gì về hành động của TQ?
+ Như tôi đã phân tích, phán quyết của Tòa Trọng tài đã vô hiệu hóa tính hợp pháp của yêu sách đường lưỡi bò, thu hẹp vùng TQ có quyền kiểm soát tại biển Đông về pháp lý và tạo căn cứ thuận lợi cho Philippines và một số nước liên quan. Nhưng công lý luôn luôn cần được hỗ trợ bằng một tương quan lực lượng thích hợp, ví dụ có sự tham gia của các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ. Dù đã thắng kiện nhưng Philippines nói riêng và ASEAN nói chung cần lưu ý đến khả năng TQ phản ứng nhằm tạo ra những “sự đã rồi” (faits accomplis) trên thực địa. Đây là một thách thức đối với sự đoàn kết, thống nhất của ASEAN. Không những thế, một phản ứng “tạo ra sự đã rồi” cũng sẽ thách thức Mỹ nếu siêu cường này thiếu quyết tâm và không có những hành động cụ thể, hữu hiệu chống lại hành động lấn lướt của TQ.
. Tháng 9 tới đây, TQ sẽ là nước chủ nhà tổ chức hội nghị G20. Liệu biển Đông có phải là vấn đề TQ ưu tiên mang lên bàn nghị sự để thông qua đó chống lại phán quyết vừa qua của Tòa Trọng tài?
+ Hội nghị G20 sắp tới diễn ra ở TQ. Hội nghị sẽ có những quốc gia có hoặc không có quyền lợi trực tiếp ở biển Đông; có thiện cảm hoặc không có thiện cảm với Mỹ. Trọng tâm của hội nghị G20 là các vấn đề kinh tế - tài chính thế giới. Vì vậy, TQ không dễ chi phối hay bị cô lập. Nhiều khả năng TQ sẽ tranh thủ loại bỏ vấn đề tranh chấp biển Đông ra khỏi chương trình thảo luận của hội nghị. Hoặc nếu có, trong một kịch bản khó có khả năng xảy ra, vấn đề cũng chỉ được đề cập hết sức mờ nhạt trong tuyên cáo chung của hội nghị.
Coi chừng “cây gậy và củ cà rốt” kiểu TQ
Nếu so cán cân lực lượng ở biển Đông, TQ vẫn chưa đủ khả năng dùng “cơ bắp” để áp đặt luật chơi riêng của mình. Bởi vì có sự hiện diện của hệ thống Mỹ và đồng minh - “trục và nan hoa” kiểu mới - được trang bị khả năng chiến đấu tinh vi nhất thế giới. Nhà nghiên cứu cấp cao của Hội đồng Quan hệ Quốc tế (Mỹ) Jennifer Harris cho rằng phía sau sự ồn ào trên thực địa là con bài chủ đạo của Bắc Kinh: Vũ khí kinh tế. Có thể thấy con bài này khi nhìn lại các lệnh cấm vận xuất nhập khẩu một số mặt hàng mà TQ từng áp dụng cho Philippines, Nhật Bản; các chiêu trò tấn công thương mại mà TQ hàm ý đe dọa ý chí các nước trong thời gian qua.
Song song đó là những gói đầu tư (có vẻ) béo bở, những khoản viện trợ khổng lồ, những hứa hẹn hợp tác với nền kinh tế thứ hai thế giới. Mỹ, đồng minh và các quốc gia trong khu vực tranh chấp phải đối trọng lại “cây gậy và củ cà rốt” của TQ mới ép buộc TQ theo luật chơi chung.
 Chiến thắng pháp lý trước TQ chỉ có ý nghĩa thực sự khi các nước trong khu vực cũng có “cây gậy” và cả “củ cà rốt”. Muốn thoát khỏi sự phụ thuộc một chiều vào kinh tế TQ, phải gia tăng hợp tác kinh tế giữa các nước nhỏ với các đầu tàu kinh tế như Mỹ, Nhật Bản, Úc, Ấn Độ.
ĐỖ THIỆN thực hiện




Nhật “tuốt kiếm” sẵn sàng tiêu diệt hải quân Trung Quốc

VietTimes  4 liên quan

Nhật Bản đang phát triển một phiên bản chiến lược chống tiếp cận (A2/AD) riêng hoặc như một cựu quân chức Nhật mô tả nhằm tạo “ưu thế áp đảo về hải quân và không quân” chống hải quân Trung Quốc.
Nhat “tuot kiem” san sang tieu diet hai quan Trung Quoc - Anh 1
Hệ thống tên lửa chống hạm Type-88 của Nhật Bản
Kế hoạch này trước đó đã được Reuteurs tiết lộ: “Tokyo đang đáp trả bằng cách thiết lập một chuỗi phòng thủ gồm các khẩu đội tên lửa chống hạm và phòng không dọc 200 hòn đảo ở biển Hoa Đông kéo dài 1.400km từ Nhật Bản tới Đài Loan…
Trong khi việc bố phòng không có gì bí mật, đây là lần đầu tiên các quan chức Nhật Bản nói về việc triển khai quân sự giúp kiềm chế Trung Quốc tại khu vực tây Thái Bình Dương và có nghĩa là một phiên bản học thuyết chống tiếp cận, được biết dưới cái tên “A2/AD” trong quân sự mà Trung Quốc đang sử dụng nhằm hất Mỹ và các đồng minh ra khỏi khu vực.
Tàu Trung Quốc hành hải ra tây Thái Bình Dương phải đi qua hàng phòng thủ kín kẽ của các hệ thống tên lửa Nhật Bản, lối đi mang tính sống còn với Bắc Kinh cả về tuyến tiếp tế kết nối với các đại dương của thế giới và cả con đường phóng chiếu sức mạnh hải quân của nước này”.
Bài báo còn cho cho biết tổng thể sự hiện diện rộng lớn hơn của quân đội Nhật Bản tại Hoa Đông mà chắc chắn không làm Trung Quốc yên lòng: “Trong vòng 5 năm tới, Nhật Bản sẽ tăng cường lực lượng phòng vệ trên các đảo ở biển Hoa Đông lên tới 10.000 người. Các binh sĩ này đóng trú các khẩu đội tên lửa và trạm radar, sẽ được yểm trợ bởi các đơn vị thủy quân lục chiến, tàu ngầm tàng hình, chiến đấu cơ F-35, các phương tiện chiến đấu đổ bộ, các tàu sân bay lớn cỡ trong thế chiến thứ hai và cuối cùng là Hạm đội 7 Mỹ đóng trú tại Yokosuka, phía nam Tokyo”.
Thật ra những ý tưởng như vậy đã xuất hiện trong cộng đồng an ninh quốc gia Mỹ từ vài năm nay. Giáo sư Toshi Yoshihara ở Trường Hải chiến Hoa Kỳ cũng đã trình bày một ý tưởng tương tự như một phần của chiến lược chống tiếp cận rộng lớn hơn của Nhật Bản tại Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS) vào năm 2014.
Theo giáo sư Yoshihara, tự quần đảo Ryukyu đã có thể hỗ trợ cho lực lượng chống tiếp cận của Nhật. Chẳng hạn, các đơn vị tên lửa chống hạm và phòng không được phân tán trên khắp quần đảo sẽ dựng lên một hàng rào phòng thủ cực kỳ kiên cố. Vào thời chiến, Nhật sẽ phong tỏa hiệu quả các chiến dịch mà các chỉ huy quân đội Trung Quốc (PLA) muốn vô hiệu hóa hệ thống phòng thủ nói trên. Những nỗ lực như vậy sẽ cột chặt số phận và năng lực chiến đấu của Trung Quốc, trong khi làm suy kiệt binh lực và thiết bị của Bắc Kinh. Bởi lẽ các hòn đảo có ít giá trị với Bắc Kinh, lãnh đạo Trung Quốc có thể quyết định rằng không đáng nỗ lực để leo thang.
Ông Yoshihara cũng lý giải rằng Trung Quốc sẽ chẳng dễ dàng tiêu diệt các hệ thống tên lửa Nhật Bản: “Bất cứ nỗ lực nào để loại bỏ mối đe dọa tên lửa Nhật cũng sẽ đòi hỏi quân đội Trung Quốc mở một mặt trận trải dài 600 dặm. Một chiến dịch phủ đầu của Trung Quốc phải bao gồm không quân và các đòn đánh tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình sẽ khiến PLA tăng lượng tiêu thụ đạn dược và nguồn lực không quân. Kết cục có thể sẽ bất lợi tương tự như Iraq đương đầu với liên quân phương Tây trong cuộc chiến Vùng Vịnh 1991. Tấn công đổ bộ là cách tốt nhất để đánh bật lực lượng bảo vệ đảo cũng có thể rủi ro nhất, với lực lượng Nhật Bản và Mỹ sẽ hủy diệt lực lượng đổ bộ Trung Quốc”.
Nhat “tuot kiem” san sang tieu diet hai quan Trung Quoc - Anh 2
Tàu sân bay trực thăng Hyuga của Nhật Bản tập trận trên biển
Giáo sư Yoshihara tiếp tục phân tích lợi thế của Nhật Bản: “Các hệ thống vũ khí phong phú, khả năng sống sót cao, không đắt đỏ như tên lửa Type 88, Type 12 và các đơn vị phòng không di động khác có thể sẽ khiến Trung Quốc lao vào một cuộc chiến kiệt sức và tốn kém hơn để giành được phần lãnh thổ ít giá trị và một viễn cảnh không chắc chắn về một sự đột phá ra vùng nước Thái Bình Dương. Những sự đầu tư khiêm tốn nhất cho các lực lượng như vậy có thể kéo căng lực lượng Trung Quốc, tạo cho Nhật Bản nhiều không gian tác chiến cần thiết hơn”.
Ông Yoshihara cho rằng vượt qua những lợi ích chiến thuật, sự phân tán chiến lược sẽ tạo lợi thế cho Nhật Bản. Nắm trong tay lựa chọn triển khai các đơn vị tên lửa chống hạm và phòng không trên quần đảo cho thấy giải pháp của Nhật trong khi tăng cường một cách bền vững năng lực hành động hiệu quả của Tokyo trong thời điểm khủng hoảng. Lực lượng phong tỏa của Nhật có thể giới hạn tầm tác chiến của các đơn vị PLA nói chung và trên lãnh thổ Nhật Bản. Sự kiềm chế như vậy sẽ giảm thiểu tình trạng leo thang và phù hợp với tư thế phòng ngự của Tokyo, hậu thuẫn ngoại giao Nhật Bản trên thế giới.
Kế hoạch phòng thủ của Nhật Bản tăng cường phòng vệ, đồng thời giới hạn tự do hành động của hải quân Trung Quốc. Tuy nhiên, Tokyo cũng phải hành động để đối phó với thứ có thể thậm chí còn là thách thức lớn hơn: Bắc Kinh đang tăng cường lực lượng tên lửa tiên tiến có thể tấn công các căn cứ của Nhật Bản và đồng minh. Giáo sư Yoshihara đã nêu ra một số giải pháp thông minh cho vấn đề này. Và dường như chính phủ Nhật Bản đã nghiên cứu kỹ những lời khuyên của ông.
* Lược dịch bài viết của chuyên gia an ninh Harry Kazianis trên tạp chí The National Interest.


Báo Nga: Đánh Mỹ, hải quân TQ sẽ trắng tay

Một tờ báo chuyên về quân sự Nga cho rằng để hạ được 1 tàu sân bay Mỹ, hải quân Trung Quốc sẽ phải "nướng" 40% hạm đội của mình.
Cụm tàu sân bay chiến đấu USS Georgie Washington của hải quân Mỹ
Cụm tàu sân bay chiến đấu USS Georgie Washington của hải quân Mỹ
Một bài báo được viết gần đây trên tờ Military-Industrial Corier ở Moscow, Nga cho rằng Trung Quốc sẽ phải “nướng” khoảng 40% hạm đội hải quân của mình trong một cuộc tấn công mới có thể đánh đắm được một siêu tàu sân bay như chiếc USS Gerald Ford sắp được hạ thủy của Mỹ.
Tàu sân bay USS Gerald Ford của Mỹ là loại hkmh hạt nhân được trang bị nhiều loại công nghệ tối tân, nâng cao đáng kể sức mạnh và khả năng phòng thủ so với các tàu sân bay thế hệ cũ. Với khả năng mang theo tới 90 máy bay chiến đấu và đảm bảo 220 lần xuất kích một ngày, đây được coi là chiếc tàu sân bay hiện đại nhất của hải quân Mỹ.
Còn hải quân Trung Quốc hiện nay sở hữu một số hệ thống vũ khí hiệu khả có thể được sử dụng để chống lại cụm tàu sân bay chiến đấu của Mỹ, trong đó có tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D và 12 tàu khu trục trang bị tên lửa dẫn đường.
Ngoài ra, 2 tàu khu trục Type 051C và 5 tàu Type 052C của hải quân Trung Quốc cũng đều được trang bị các loại tên lửa chống hạm như YJ-83, C-805 và YJ-62, đây được coi là mối đe dọa nghiêm trọng đối với tàu sân bay Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ngoài ra, mới đây Trung Quốc cũng đã mua thêm 4 tàu khu trục lớp Sovremenny được trang bị tên lửa chống hạm Moskit SSM P-270 của Nga.
Bên cạnh tàu sân bay Liêu Ninh, hải quân Trung Quốc còn được trang bị 15 tàu khu trục loại nhỏ Type 054A mang theo tên lửa hải đối không HQ-16 có khả năng phóng thẳng đứng. Ngoài khả năng bảo vệ hạm đội Trung Quốc trước các máy bay chiến đấu xuất phát từ tàu sân bay Mỹ, tàu khu trục Type 054A cũng có thể đánh đắm tàu chiến Mỹ bằng tên lửa chống hạm C-803.
Tuy nhiên đấy là trong trường hợp cụm tàu sân bay chiến đấu của Mỹ tiến vào vùng biển gần bờ của Trung Quốc. Trong trường hợp này, hải quân Trung Quốc có thể triển khai 10 tàu hộ tống Type 056 và 40 tàu tên lửa Type 022 để phát động chiến tranh du kích trên biển chống lại tàu chiến Mỹ.
- 2
Tàu khu trục lớp Sovremenny trang bị tên lửa chống hạm Moskit SSM P-270 của Nga
Các loại tàu cỡ nhỏ này của Trung Quốc đều có thể phóng tên lửa chống hạm như YJ-83 và C-803, và nếu như các tên lửa này may mắn trúng được tàu sân bay Mỹ thì với mỗi một tàu sân bay bị chìm, hải quân Mỹ sẽ bị tổn thất 10% sức mạnh trong khu vực.
Tuy nhiên, hải quân Trung Quốc sẽ không thể dễ dàng đánh đắm được tàu sân bay Mỹ. Theo tạp chí Forbes, hải quân Mỹ đã phát triển nhiều biện pháp tự vệ để bảo vệ tàu sân bay khỏi các cuộc tiến công kiểu “du kích” như vậy của tàu chiến Trung Quốc. Mỹ có thể cho máy bay không người lái tầm xa bắn tên lửa phá hủy các cơ sở tên lửa của Trung Quốc, đồng thời chiến đấu cơ F-35 với tầm hoạt động từ 200-300 hải lý có thể giúp hải quân Mỹ phát động tấn công mà không cần phải tiến gần vào vùng biển Trung Quốc.
Tờ Military-Industrial Courier ước tính rằng với chiến thuật du kích đó, khoảng 30-40% tiềm lực hải quân của Trung Quốc sẽ bị hủy diệt hoàn toàn chỉ để tiêu diệt được một tàu sân bay Mỹ, điều đó có nghĩa rằng chỉ với 3 tàu sân bay là Mỹ có thể khiến hải quân Trung Quốc "trắng tay". Với lực lượng tàu hộ tống và tàu khu trục hùng hậu trong đội hình cụm tàu sân bay chiến đấu của hải quân Mỹ, những tàu tên lửa của Trung Quốc sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt ngay sau khi phát động tấn công.
Hiện tại, điểm yếu duy nhất của hải quân Mỹ trong cuộc chiến tranh tiềm tàng với hải quân Trung Quốc là khả năng triển khai toàn bộ 11 tàu sân bay, 88 tàu chiến mặt nước, 55 tàu chiến Littoral và 31 tàu tấn công đổ bộ tới vùng biển tây Thái Bình Dương chỉ trong vòng một thời gian ngắn.T.N

không để làm càn


Không có nhận xét nào: