Có lẽ, vì chịu sự ảnh hưởng của tác phẩm “Tam Quốc Diễn Nghĩa” mà rất nhiều người đã nhìn nhận rằng, Chu Du là người “lòng dạ hẹp hòi”, “độ kỵ ghen ghét người hiền tài”, nhưng Chu Du trong lịch sử, thật không đúng như vậy, thậm chí còn tương phản hẳn lại.
Chu Du không chỉ có tướng mạo khôi ngô tuấn tú, ôn hòa nho nhã, đọc nhiều thơ sách, tinh thông binh pháp, am hiểu âm nhạc mà còn độ lượng quảng đại. Mặc dù tuổi trẻ nhưng Chu Du lại có tài trí mưu lược kiệt xuất, bởi vậy mới được Lưu Bị xưng là bậc anh tài trong thiên hạ.

Thân thế của Chu Du

Trong “Tam Quốc Chí” có ghi chép rằng, Chu Du (175 -210) tên tự là Công Cẩn, sinh ra trong một đại gia tộc có nhiều người làm quan ở huyện Thư, Lư Giang, An Huy ngày nay. Ông nội của ông là Chu Cảnh và chú là Chu Trung đều làm quan Thái úy (một trong 9 chức quan thời xưa). Cha của ông là Chu Dị từng làm quan huyện lệnh Lạc Dương. Có thể nói, gia tộc Chu Du là một trong những gia tộc hiển hách trong lịch sử Trung Hoa.
Chu Du từ lúc trẻ đã nổi tiếng là người có tướng mạo tuấn tú, thân hình cao lớn, tráng kiện. Không những thế, Chu Du còn có tài năng cả văn và võ.
Hình vẽ minh họa Chu Du (Ảnh: Sưu tầm)
Hình vẽ minh họa Chu Du (Ảnh: Sưu tầm)
Theo sử sách ghi chép, Chu Du từ lúc còn ít tuổi đã tinh thông âm luật, chơi đàn giỏi. Cho dù đã uống hết ba chung rượu tức là đã ngà ngà say, nhưng chỉ cần người chơi đàn mắc một lỗi nhỏ ông đều phát hiện ra. Đồng thời ngay lập tức ông sẽ ngó về phía ấy và chỉ ra lỗi sai.
Bởi vì Chu Du tướng mạo khôi ngô tuấn tú nên các cô gái khi chơi đàn để giành được nhiều cái “liếc mắt” của ông nên thường thường cố ý mắc lỗi.  Vì vậy mà dân gian lưu truyền một câu rất nổi tiếng “Khúc hữu ngộ, chu lang cố”  (Tạm dịch: Khi nốt nhạc bị đánh sai, Chu Lang liền ngó về phía đó).
Về sau này, điển cố “Chu Lang cố khúc” thường được các đại văn hào trích dẫn, cũng thường xuyên xuất hiện trong các loại thơ ca, hí khúc, tác phẩm văn học…Trong tác phẩm “Thính tranh” của tác giả Lý Đoan, triều đại nhà Đường có viết: “Minh tranh kim túc trụ, tố thủ ngọc phòng tiền. Dục đắc chu lang cố, thì thì ngộ phất huyền.” (Tạm dịch: Gảy chiếc đàn tranh trụ vàng, bàn tay trắng nõn trước phòng ngọc, muốn được Chu Lang ngoảnh lại nhìn nên thi thoảng lại gảy nhầm dây.)
Không chỉ tinh thông âm nhạc, nho nhã khôi ngô, ở phương diện quân sự Chu Du cũng có tài năng phi phàm. Vào những năm cuối Đông Hán, quần hùng tranh giành. Phá lỗ tướng quân Tôn Kiên khởi binh thảo phạt quyền thần Đổng Trác, trước đó ông có chuyển nhà đến huyện Thư. Con trai “tiểu bá vương” của Tôn Kiên là Tôn Sách bằng tuổi với Chu Du. Hai người họ gặp nhau, có cùng chí hướng nên rất thân thiết, tình cảm như anh em. Chu Du còn cho gia đình Tôn Sách ở dãy nhà phía nam hướng ra đường lớn của nhà mình. Hai nhà cùng giúp đỡ nhau lúc khó khăn. Về sau này, Chu Du và Tôn Sách hợp binh chinh chiến, đánh đâu thắng đấy, không gì cản nổi, xưng bá ở Giang Đông.
Khi ấy, Viên Thuật thấy Chu Du là người có tài, bèn mời ông đến làm bộ tướng (Tôn Sách bấy giờ trên danh nghĩa vẫn là người của Viên Thuật). Nhưng Chu Du nhận thấy Viên Thuật không phải là người có thể làm được việc lớn, nên tìm cách thoái thác, chỉ xin làm quan huyện ở Cư Sào để tìm cách trở về Giang Đông theo Tôn Sách. Tôn Sách được tin Chu Du trở về nên đã tự mình nghênh đón và phong ông làm Kiến Uy trung lang tướng. Đồng thời, Tôn Sách cũng giao cho Chu Du điều khiển 2000 quân và 50 ngựa chiến. Năm ấy Chu Du mới 24 tuổi, mọi người đều tôn sùng ông và gọi ông là “Chu Lang”.
Từ đó trở đi, Chu Du hiệp trợ cho Tôn Sách chinh chiến bốn phương. Sau khi đánh chiếm được Hoãn Thành (tỉnh An Huy ngày nay), họ gặp hai tiểu thư xinh đẹp nổi tiếng con của Kiều công và lấy làm vợ. Tôn Sách lấy người chị tên là Đại Kiều, Chu Du lấy người em tên là Tiểu Kiều. Hai cặp trai tài gái sắc bỗng trở thành một giai thoại được người đời nhắc đến.
Năm 200, Tôn Sách gặp chuyện bị bỏ mạng, Chu Du phụ tá em trai của Tôn Sách là Tôn Quyền. Trương Chiêu phụ trách việc triều đình, Chu Du phụ trách việc binh lính, chống lại kẻ thù bên ngoài. Lúc ấy ở Giang Đông có thuyết pháp “Nội sự bất quyết vấn Trương Chiêu, ngoại sự bất quyết vấn Chu Du” (Tạm dịch: Việc nội bộ không quyết được thì hỏi Trương Chiêu, việc bên ngoài không quyết được thì hỏi Chu Du).
Chu Du trung thành tận tâm có phương pháp điều binh bên ngoài, đánh bại đội quân tấn công của Lưu Biểu. Năm 208 CN, sau khi Tôn Quyền quyết ý thảo phạt Giang Hạ, Chu Du được bổ nhiệm làm Tiền Bộ Đại Đô Đốc.

Chu Du khí phách phi phàm, khoan dung, cao thượng

Một trang của "Tam Quốc Chí" sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc (Ảnh: Wikipedia)
Một trang của “Tam Quốc Chí” sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc (Ảnh: Wikipedia)
Trong tiểu thuyết “Tam Quốc Diễn Nghĩa” của tác giả La Quán Trung, Chu Du bị miêu tả thành một nhân vật ghen ghét Gia Cát Lượng, lòng dạ hẹp hòi, nhiều lần muốn đẩy Gia Cát Lượng đến chỗ chết. Thậm chí người đời còn lưu truyền rằng, trước khi chết, Chu Du đã than thở rằng: “Đã sinh Du, sao còn sinh Lượng”…tất cả đều không phải sự thật. Chu Du thật trong lịch sử là người khí phách phi phàm, có tấm lòng khoan dung độ lượng và rất cao thượng.
Trong “Tam Quốc Chí” viết về Chu Du: “Tính tình khoáng đạt, đại lượng…là bậc kỳ tài!” Ông đối với người bề dưới đều có lễ nghĩa, được mọi người vô cùng kính trọng. Trong “Giang biểu truyện” khi kể về Chu Du còn nói rõ hơn về vấn đề này.
Trình Phổ là công thần khai quốc nước Đông Ngô, từng đi theo Tôn Kiên ra sống vào chết, lập được nhiều chiến công hiển hách. Ông lớn tuổi hơn Chu Du nhưng chức vị lại thấp hơn nên sinh lòng đố kỵ, ghen ghét, không phục. Vì thế, Trình Phổ nhiều lần vũ nhục Chu Du nhưng Chu Du trước sau đều thủy chung khoan dung tha thứ, cung kính đối đãi Trình Phổ, nhẫn nhịn vì việc nước.
Sau nhiều lần như vậy, Trình Phổ đã sinh lòng cảm động, kính trọng Chu Du. Về sau, khi nhắc đến Chu Du, ông nói: “Dữ chu công cẩn giao, như ẩm thuần lao, bất giác tự túy” (Ý nói làm bạn với Chu Du giống như uống rượu ngon, không biết bị say lúc nào).
Có thể khiến cho công thần khai quốc Đông Ngô là Trình Phổ – một người nổi tiếng là tâm cao  khí ngạo, cảm động và ngợi ca kính trọng đủ để thấy trí tuệ và sức hấp dẫn của nhân cách của Chu Du lớn thế nào. Một người như vậy, sao có thể ghen tị, đố kỵ với Gia Cát Lượng?
Trong sử sách còn ghi chép rằng, Tào Tháo đã phái người tên là Tưởng Cán là người quen của Chu Du đến dụ dỗ ông, nhưng Tưởng Cán về báo lại với Tào Tháo rằng: “Nhã lượng cao trí, phi ngôn từ sở nhàn” (Tạm dịch: Chu Du là người độ lượng, trí hướng cao vời không từ nào có thể thuyết phục được). Lưu Bị lúc đến Kinh Khẩu mượn Kinh Châu đã từng đàm luận với Tôn Quyền rằng Chu Du là người văn võ song toàn, bậc anh tài kiệt xuất trong thiên hạ. Ngoài ra, Chu Du từng mượn 2000 binh cấp cho Lưu Bị, đây quả thực là một việc mà người có lòng dạ hẹp hòi không thể làm được.
Trong “Dung trai tùy bút” của tác giả Hồng Mại đời nhà Tống viết rằng, từ xưa đến nay tướng soái thống lĩnh có không ít người có tính cao ngạo, đố kỵ ghen ghét với người tài giỏi hơn mình. Nhưng “”Tôn ngô tứ anh tương” tức Chu Du, Lỗ Túc, Lữ Mông và Lục Tốn không phải người như vậy. Chu Du tận sức tiến cử Lỗ Túc, đây là một ví dụ điển hình. Nhà văn lớn triều Tống là Tô Thức cũng khẳng định rằng, ít nhất ở triều đại nhà Tống, hình tượng của Chu Du vẫn là phi thường ngay chính, nhưng từ triều Nguyên thì hình tượng Chu Du bắt đầu bị bẻ cong, làm ảnh hưởng đến người đời sau.

Đại chiến Xích Bích, Chu Lang oai hùng

Sơ đồ trận chiến Xích Bích (Ảnh: Wikipedia)
Sơ đồ trận chiến Xích Bích (Ảnh: Wikipedia)
Trong lịch sử, đại chiến Xích Bích là trận chiến nổi tiếng về “lấy ít thắng nhiều”. Trong trận chiến này, tài năng quân sự của Chu Du mới được đẩy lên một cái vũ đài mới, cũng khiến cho tên tuổi của ông được lưu danh muôn đời. Điều này là bởi vì trận chiến Xích Bích là một trận đánh lớn cuối thời Đông Hán, có tính chất quyết định đến cục diện chia ba thời Tam Quốc. Nếu không có Chu Du, trận chiến Xích Bích sẽ không thắng lợi, thậm chí sẽ không có trận chiến Xích Bích. Bởi vì, bên liên quân là Gia Cát Lượng phụ tá Lưu Bị căn bản không có thực lực chiến thắng Tào quân.
Mùa xuân năm 208, Chu Du dẫn đại quân chiếm lĩnh Giang Hạ. Tháng 9, đại quân của Tào Tháo cũng chiếm được Kinh Châu. Quân đội Đông Ngô và Tào ở Giang Nam và Giang Bắc, khiến đại chiến hết sức căng thẳng. Tào Tháo với đội quân hùng mạnh lên đến hơn 80 vạn tỏ rõ ý muốn nhanh chóng thôn tính Đông Ngô.
Đối mặt với hoàn cảnh bị áp lực trước quân Tào, nội bộ quân Đông Ngô xuất hiện hai phe, một là chủ hàng, một là chủ chiến. Phe chủ hàng do Trương Chiêu đứng đầu dựa vào lí lẽ quân số vượt trội của Tào Tháo, phe chủ chiến do Chu Du, người chỉ huy quân đội của Tôn Quyền, cùng Lỗ Túc, Gia Cát Lượng lại đề nghị lập một liên minh chống Tào với Lưu Bị.
Trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa”miêu tả rằng, nhóm quan văn bên Ngô chủ trương hàng Tào, từng người đều đứng ra đặt câu hỏi nhằm làm khó Khổng Minh. Khổng Minh dựa vào ba tấc lưỡi “đánh gãy” bọn nho Đông Ngô, sau đó dùng kế khích Tôn Quyền và Chu Du cùng liên minh với Lưu Bị chống lại Tào Tháo. Nhưng trong chính sử (Sử ký, Hán thư) ghi chép rằng, Chu Du đã giữ vững lập trường, đồng thời tiến hành một bài phân tích sắc bén.
Đầu tiên, Chu Du nói với Tôn Quyền: “Tương quân dĩ thần vũ hùng tài, kiêm trượng phụ huynh chi liệt, cát cứ giang đông, đích phương sổ thiên lí, binh tinh túc dụng, anh hùng nhạc nghiệp, thượng đương hoành hành thiên hạ.” Ông cũng chỉ ra rằng quân Tào không có sở trường về thủy chiến, huống hồ mùa đông giá lạnh, ngựa không có cỏ ăn, binh lính cực khổ trong thời gian dài sẽ không thích nghi được và chắc chắn sẽ sinh bệnh.
Đây cũng là điều tối kỵ trong phương pháp dùng binh. Ông còn nói rằng, quân Tào cũng không đáng sợ, chỉ cần trong tay ông có 5 vạn binh lính tinh nhuệ thì có thể đảm bảo nắm chắc phần thắng. Tôn Quyền nghe xong vô cùng cao hứng, liền nói: “Năm vạn binh lính tinh nhuệ nhất thời khó có thể tập hợp lại, hiện tại có thể tuyển chọn được ba vạn. Thỉnh mời huynh cùng với Tử Kính, Trình Công nghênh tiếp quân địch.” Chu Du lập tức được bổ nhiệm làm Chủ suất tá đô đốc, dẫn quân ngược dòng Trường Giang về phía Tây, hợp với quân của Lưu Bị, cùng đánh lại quân của Tào Tháo.
Từ lúc này, trận chiến cũng chứng tỏ tài năng quân sự trác tuyệt, con mắt tinh tường và tài mưu lược của Chu Du. Chu Du dẫn ba vạn thủy quân đối mặt với 15 vạn đại quân của Tào Tháo, lấy một chọi năm mà khiến quân địch hóa thành tro bụi.
Trong sử sách ghi chép, sau khi liên quân Tôn – Lưu hợp lại, dưới sự chỉ huy của Chu Du, thêm vào đó là quân Tào không hợp khí hậu, lại không thạo thủy chiến, nên liên quân đã giành được thắng lợi. Tào quân tạm thời rút lui. Về sau, Tào quân một mặt huấn luyện thủy binh, để giảm sự tròng trành của thuyền chiến, Tào Tháo ra lệnh dùng xích sắt nối nhiều thuyền lại với nhau.
Quan sát động thái này của Tào, tướng Hoàng Cái bên phía Đông Ngô đã đề xuất với Chu Du dùng kế trá hàng và được Chu Du đồng ý. iệc trá hàng thuận lợi, Hoàng Cái chuẩn bị một đội thuyền để bơi sang đánh úp vào thuỷ trại Tào. Chu Du cấp cho Hoàng Cái mười chiến thuyền. Những chiến thuyền này bên trong chứa đầy lưu huỳnh và cỏ khô tẩm dầu, phía trên dùng vải bạt che phủ, đằng sau mỗi chiến thuyền này còn có một chiếc thuyền máy.
Khi đội binh của Hoàng Cái đến cách hạm đội của Tào khoảng hai dặm thì các hỏa thuyền bắt đầu được châm lửa và đúng hôm đó được trời tương trợ, hướng gió là hướng Đông Nam nên những chiến thuyền được châm lửa lao thẳng vào hạm đội của Tào. Kết quả, Tào quân đại bại, số lượng quân lính bị chết và thương vong là hơn một nửa.

 Sự ra đi của Chu Du

Sau đại chiến Xích Bích, Lưu Bị nhân lúc Chu Du và Tào Nhân đang giằng co ở Giang Lăng đã chiếm lĩnh bốn quận ở phía nam của Giang Lăng. Để tăng cường liên minh Tôn – Lưu, Tôn Quyền đã gả em gái của mình cho Lưu Bị. Chu Du dự đoán được rằng Lưu Bị ngày sau tất sẽ thành được đại sự nên đã khuyên Tôn Quyền giữ Lưu Bị ở lại Đông Ngô, nhưng Tôn Quyền không nghe theo.
Sau này Chu Du lại kiến nghị Tôn Quyền nên thừa cơ Tào Tháo vừa bị bại mà tiến công Ích Châu, chiếm Ba Thục, sau đó lại liên kết với Mã Siêu ở Tây Lương chiếm cứ Tương Dương, tiến công Tào Tháo. Tào Tháo vừa bị bại, Lưu Bị sẽ không đủ nghĩ đến. Ý tưởng này của Chu Du và Gia Cát Lượng không mưu mà hợp. Tôn Quyền cảm thấy chủ ý này không hề tệ liền cho Chu Du quay về Giang Lăng chỉnh đốn binh mã.
Năm 210 công nguyên, Chu Du trên đường trở về Giang Lăng bị bệnh nặng, nhưng ông vẫn gắng sức đi đến Ba Khâu, kiểm duyệt binh lính. Sau khi đại quân Đông Ngô xuất phát không lâu thì Chu Du chết bệnh, năm đó ông gần 36 tuổi.
Năm 229, Tôn Quyền xưng đế. Sau khi lên ngôi, Tôn Quyền nói với “tam công cửu khanh” (các chức vị trong triều thời xưa) rằng: “Cô phi Chu Công Cẩn, bất đế hĩ”, ý nói, nếu không có Chu Du thì ông không có địa vị ngày hôm nay.
Chu Du mặc dù chết trẻ, nhưng phẩm chất làm người và tư thế oai hùng, chính trực của ông vẫn còn sống mãi đến muôn đời sau.
Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Mai Trà biên dịch
Xem thêm: