Năm 1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc có công bố một tài liệu với tên gọi "Chủ quyền không tranh cãi của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa".
Tài liệu này có một tiểu mục với tựa "Sự man trá của chính quyền Việt Nam", trong đó chỉ ra những bằng chứng cho thấy trước năm 1979, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần tuyên bố Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Ngoài công hàm gây tranh cãi của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, tài liệu này còn dẫn nhiều tuyên bố của các quan chức chính phủ miền Bắc, trong đó có của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm:
"Ngày 15/6/1956, trong khi tiếp đại diện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, Lý Chí Dân, Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nói với ông rằng: "Theo dữ liệu của Việt Nam, quần đảo Tây sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một phần lãnh thổ của Trung Quốc."
Bên cạnh đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng chỉ ra một tuyên bố khác vào năm 1965 của miền Bắc:
"Trong tuyên bố ngày 9/5/1965 về việc chính phủ Mỹ quy định vùng chiến sự cho lực lượng của họ tại Việt Nam, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nói ... 'Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đã chỉ định ... một phần lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong quần đảo Tây Sa làm "vùng chiến sự" của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ'."
Cuốn sách "Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" của ông Lưu Văn Lợi do Nhà xuất bản Công an Nhân dân Hà Nội phát hành năm 1995, xác nhận cả hai tuyên bố này:
"Việc nói Tây Sa là của Trung Quốc trong bản tuyên bố của chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong tuyên bố năm 1965 về việc Mỹ quy định khu vực chiến đấu của quân Mỹ hay câu nói của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm về Tây sa là có thật," ông Lợi viết.
Ngoài ra, tài liệu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn kèm theo một tấm bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam [Dân chủ Cộng hòa] xuất bản năm 1972 trong đó ghi Tây Sa và Nam Sa theo tên Trung Quốc.
Tài liệu này còn nói các bản đồ của miền Bắc trong các năm 1960 và 1974 cũng ghi rõ Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.
Nhân dịp 40 năm hải chiến Hoàng Sa, BBC đã có cuộc phỏng vấn sử gia, đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, về những tài liệu này.
'Nhiều chính thể, một Tổ quốc'
BBC: Trước năm 1975, quan điểm của miền Bắc về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa là như thế nào, thưa ông?
Sử gia Dương Trung Quốc: Tôi nghĩ rằng tùy vào hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, có những thời kỳ có nhiều lực lượng chính trị khác nhau.
Ngay từ thời kỳ xa xưa, như Trịnh-Nguyễn phân tranh, Việt Nam vẫn là một nước Đại Việt thống nhất.
Hay như sau hiệp định Genève, hai miền Nam Bắc dù có bị chia cắt bởi vĩ tuyến 17, thì về nguyên lý, nước Việt Nam vẫn là thống nhất, với quy định là 2 năm sau thì tổng tuyển cử.
Tôi nghĩ vào thời điểm năm 74, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã thực thi đúng nhiệm vụ của mình được quốc tế đảm bảo.
Tổ quốc Việt Nam thì chỉ có một, còn chính thể thì có thể có nhiều, và đó là trách nhiệm của bất kỳ chính thể nào đối với lãnh thổ của Tổ quốc.
'Mất cảnh giác'
BBC: Ngoài công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Trung Quốc cũng đưa ra nhiều tài liệu để nói miền Bắc đã nhiều lần công nhận Hoàng Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, như tuyên bố của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm năm 1956, tuyên bố năm 1965 về vùng chiến sự của Mỹ, hay các bản đồ mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng trong các năm 60,72,74.
Ông nghĩ gì về những tài liệu này và giá trị pháp lý của chúng?
Sử gia Dương Trung Quốc: Chúng tôi thì chưa được tiếp cận với bản gốc, thế nhưng nếu những điều đó có xảy ra thì cũng không có gì là lạ.
Bởi vì vào thời điểm đó thì chúng ta đều biết rằng Việt Nam đang diễn ra một cuộc chiến tranh, và rõ ràng Trung Quốc đang là đồng minh trực tiếp của miền Bắc Việt Nam.
Thêm vào đó, những quan hệ được xây dựng từ trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp thì có thể tạo ra một điều mà tôi có thể nói thẳng là sự mất cảnh giác. Đó là chỗ mà người Trung Quốc, vốn thâm hiểm, muốn khai thác.
Nhưng nếu nhìn vào chiều dọc lịch sử và tính liên tục của nó thì ta có thể thấy rất nhiều bằng chứng là Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình, từ thời kỳ quân chủ, và trước đó là các chúa Nguyễn.
Chúng ta cũng biết là người Pháp khi biến Việt Nam thành thuộc địa cũng thực thi quyền ngoại giao của mình và khẳng định tất cả.
Quan trọng nhất là đến năm 1974, sự hiện diện của quân đội Việt Nam Cộng hòa trên Hoàng Sa nói riêng và các đảo trên Biển Đông nói chung thì hết sức rõ ràng. Trận chiến năm 1974 cũng rất rõ ràng.
Vào thời điểm đó, theo Hiệp định Genève thì lãnh thổ nào của Việt Nam ở sau vĩ tuyến 17 thì đều thuộc quyền quản lý Việt Nam Cộng hòa.
Đương nhiên người Trung Quốc sẽ tìm mọi chi tiết để chứng minh, nhưng nếu nhìn theo tổng thể lịch sử và cái tính liên tục của nó thì tôi nghĩ rằng những chi tiết không quan trọng.
Bài học lịch sử
BBC: Ông cho rằng việc thay đổi quan điểm trong việc vinh danh tử sỹ Hoàng Sa thì có thể giúp gì cho Việt Nam trong việc đòi lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa trong tương lai?
Sử gia Dương Trung Quốc: Tôi cho rằng trước hết là cần phải rút ra bài học lịch sử, nhất là trong quan hệ với phương Bắc.
Nếu đọc kỹ lịch sử, chúng ta thấy là khi nào trong nước có mâu thuẫn, không ổn định, không đoàn kết thì mất nước. Họ luôn khai thác điều đó.
Tôi nghĩ rằng để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam, kể cả những vùng Trung Quốc đã chiếm đóng thì việc đầu tiền là người Việt Nam phải biết đoàn kết với nhau, thống nhất về ý chí rằng đó là lãnh thổ của chúng ta.
Còn về thời gian thì chúng ta phải chấp nhận một quá trình mà trong thế giới hiện đại ngày nay, chúng ta không thể không dựa vào những cam kết, những luật quốc tế để giải quyết vấn đề một cách cơ bản, không chỉ đối với quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc mà còn quan hệ giữa Trung Quốc với khu vực có liên quan.
Quân đội Việt Nam đang tăng cường vũ trang để chuẩn bị nếu xảy ra xung đột với Trung Quốc sau một thập niên dài trên đường hiện đại hóa. Đây là đợt trang bị quân sự lớn nhất của Hà Nội kể từ đỉnh điểm cuộc chiến tranh Việt Nam.
Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là đánh đuổi người hàng xóm khổng lồ khi căng thẳng lên cao vì xung đột ngoài Biển Đông. Nếu mục tiêu này không đạt được, thì Việt Nam vẫn có thể tự vệ trên mọi mặt trậnkhác, các quan chức cao cấp và giới thạo tin nói với Reuters.
Chiến lược của Việt Nam đã vượt xa kế hoạch phòng ngự. Các đơn vị chủ chốt đã được đặt vào vị trí “sẵn sàng chiến đấu cao” – một tín hiệu cho thấy sẵn sàng cho việc bị tấn công bất ngờ. Cả Sư đoàn 308 tinh nhuệ trấn giữ vùng núi phía Bắc cũng được đặt vào tình trạng này.
Việt Nam và Trung Quốc từng có cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu năm 1979. Điểm bùng phát bây giờ có thể là Biển Đông, nơi cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
“Chúng tôi không muốn có xung đột với Trung Quốc và chúng tôi phải đặt niềm tin vào chính sách ngoại giao của mình.” - Một quan chức cao cấp của chính phủ Việt Nam đề nghị giấu tên cho Reuters biết. “Nhưng chúng tôi biết mình cần phải sẵn sàng cho điều tồi tệ nhất.”
Đáng chú ý hơn cả, Hà Nội đang xây dựng lực lượng phòng vệ hải quân rất lớn từ chỗ gần như không có gì, bằng việc mua sáu tàu ngầm lớp Kilo cao cấp từ Nga.
Trong vài tháng gần rồi, chiếc tàu ngầm đầu tiên đã bắt đầu tuần tra trên Biển Đông, các quan chức quân sự Việt Nam và nước ngoài cho biết, và đây là xác nhận đầu tiên về sự hiện diện của tàu ngầm Việt Nam trong vùng biển chiến lược.
Sư đoàn 308
Về mặt quân sự, có thể thấy phần nào không khí căng thẳng tại trụ sở Sư đoàn 308 phía tây bắc Hà Nội. Đây là đơn vị quân đội tinh nhuệ nhất của Việt Nam, nơi các tướng lãnh quân sự cao cấp liên tục nhắc đến việc “sẵn sàng chiến đấu cao”.
Cụm từ này được ghi trên bảng lớn bên dưới ảnh tên lửa và chân dung người sáng lập cách mạng Việt Nam, ông Hồ Chí Minh, cùng ảnh anh hùng quân đội huyền thoại, Tướng Võ Nguyên Giáp.
Nằm ở giữa vùng núi non hiểm trở phía bắc Việt Nam và những cánh đồng lúa cổ xưa của đồng bằng Sông Hồng, Sư đoàn 308 là đơn vị quân đội lâu đời nhất của Việt Nam và vẫn đang trấn giữ hiệu quả khu vực phía Bắc tiếp giáp Hà Nội.
Một quan chức cao cấp, Đại tá Lê Văn Hải [Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 308], nói ông không thể bình luận về Trung Quốc, cho thấy sự nhạy cảm của chủ đề này về mặt chính thống. Nhưng Việt Nam sẵn sàng đẩy lùi bất cứ lực lượng nước ngoài nào, ông nói với Reuters trong cuộc viếng thăm hiếm hoi của một phóng viên nước ngoài.
Ông Lê Văn Hải phát biểu: “Sẵn sàng chiến đấu là ưu tiên hàng đầu của sư đoàn, của Bộ Quốc phòng và của quốc gia. Chúng tôi có thể xử lý bất kỳ tình huống bất ngờ hoặc không mong đợi nào... Chúng tôi luôn sẵn sàng.”
“Sẵn sàng chiến đấu cao”, cùng với các đề cập về “tình hình mới”, đang được nhắc đến nhiều hơn trong các diễn văn của quan chức cao cấp khi đến thăm các căn cứ quân sự và trên nhiều ấn phẩm của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Giới chức ngoại giao nói cụm từ này cũng thường được nhắc đến trong các cuộc gặp với các phái đoàn quân sự nước ngoài.
Giáo sư Carl Thayer, từ Học viện Quốc phòng Úc tại Canberra, người đã nghiên cứu quân sự Việt Nam từ cuối thập niên 1960, cho biết: “Khi Việt Nam nhắc đến “tình hình mới” thì là họ đang sử dụng một cụm từ được mã hóa đề cập đến khả năng đối đầu hoặc xung đột quân sự ngày càng cao với Trung Quốc, đặc biệt là trên Biển Đông”.
Trong khi chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, các tướng lĩnh một thời tách biệt với thế giới của Hà Nội nay đang vươn ra tìm đối tác chiến lược đa dạng. Nga và Ấn Độ là nguồn cung cấp vũ khí hiện đại, huấn luyện và hợp tác tình báo. Hà Nội xây dựng quan hệ chặt chẽ với Mỹ và các đồng minh như Nhật, Úc, Philippines, cũng như Châu Âu và Israel.
Kết quả của việc vươn ra bên ngoài là các đợt mua bán vũ khí, các chuyến tàu đến thăm và hoạt động chia sẻ thông tin tình báo, tuy nhiên có giới hạn. Hà Nội không tham gia liên minh quân sự với các nước vì trung thành với chính sách ngoại giao độc lập.
Các nguồn tin nói với Reuters Việt Nam đang muốn mua thêm máy bay ném bom Nga và đang đàm phán với các nhà sản xuất vũ khí Châu Âu, Mỹ để mua thêm máy bay chiến đấu, máy bay tuần tra biển, và trinh thám không người lái. Việt Nam mới đây cũng nâng cấp và mở rộng lực lượng phòng không, trang bị thêm radar giám sát cảnh báo sớm, và các hệ thống tên lửa đất đối không từ Nga.
Viện nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) ước tính rằng chi tiêu quân sự của Việt Nam đã tăng vọt và bỏ xa những hàng xóm Đông Nam Á khác trong thập niên vừa rồi.
Ông Tim Huxley, một chuyên gia an ninh khu vực tại Viện nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ở Singapore, nhận xét: “Họ không làm việc này chỉ để diễu binh... họ đang thực sự xây dựng sức mạnh quân đội”.
Điểm bùng phát giàn khoan
Mặc dù các đảng cộng sản đang lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ sự tương đồng về chính trị, hai quốc gia này đã từng có lịch sử xung đột vũ trang và một thời gian dài mất lòng tin vào nhau.
Một nghiên cứu mới tiết lộ cuộc chiến tranh Việt – Trung năm 1979 thực ra khốc liệt hơn người ta từng biết rất nhiều, kéo dài dai dẳng mãi đến giữa thập kỷ 1980. Cả hai bên đã đụng độ trên biển năm 1988, khi Trung Quốc lần đầu tiên chiếm đảo của Việt Nam ở Trường Sa. Sự kiện này vẫn là vết thương rỉ máu trong lòng Hà Nội.
Trung Quốc đã chiếm hoàn toàn một quần đảo khác trên Biển Đông, quần đảo Hoàng Sa, sau một cuộc đối đầu với hải quân Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1974. Hà Nội vẫn phản đối hành động này của Trung Quốc.
Gần đây hơn, khi Trung Quốc đưa một giàn khoan dầu vào vùng biển tranh chấp trong 10 tuần khoảng giữa năm ngoái, bạo động chống Trung Quốc đã xảy ra ở nhiều nơi tại Việt Nam.
Giàn khoan được đưa đến khu vực cách thềm lục địa Việt Nam 80 hải lý. Sự việc này đã thay đổi thế trận, các quan chức Việt Nam nói riêng với Reuters, củng cố thêm nghi ngờ về Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong giới lãnh đạo quân đội và chính trị Hà Nội.
Việt Nam điều hàng chục tàu dân sự ra đối đầu với 70 tàu chiến và tàu tuần dương Trung Quốc để bảo vệ giàn khoan vào khoảng giữa năm 2014.
Một sỹ quan hải quân Mỹ đã về hưu nói: “Đó là lời nhắc nhở cho tất cả chúng ta Biển Đông có thể trở nên nguy hiểm đến mức nào.”
Về phần mình, các chiến lược gia quân sự Trung Quốc nhiều lần bực tức trước các nhà giàn mà Hà Nội tăng cường trong vùng biển Trường Sa sau khi mất Hoàng Sa năm 1974. Trung Quốc đang xây dựng ba đường băng trên các đảo nhân tạo ở Trường Sa, trong đó có khu vực chiếm từ Việt Nam năm 1988.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc gửi đến Reuters một thông cáo cho biết quân đội hai nước có quan hệ thân thiện, gần gũi và Trung Quốc sẵn sàng cùng với Việt Nam xây dựng hòa bình trong khu vực.
Thông cáo cho biết: “Cả hai bên đã trao đổi thẳng thắn về vấn đề Nam Hải [Biển Đông]... cả hai bên nên tìm kiếm một giải pháp cơ bản, bền vững mà cả hai bên đều có thể chấp nhận”.
Trong lịch sử, Trung Quốc từng khẳng định chủ quyền trên hầu hết khu vực Biển Đông, trên một bản đồ có đường chín đoạn, chồng lấn vào các khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền trong khu vực.
Khoảng 5 nghìn tỷ USD hàng hóa qua lại trong vùng biển này mỗi năm, trong đó có phần lớn lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc, Nhật và Hàn Quốc.
“Bất an tinh thần”
Việc Trung Quốc chú trọng bảo vệ căn cứ tàu ngầm trên đảo Hải Nam – một căn cứ dự định cho hạm đội tàu ngầm nguyên tử của nước này – có thể là một điểm bùng phát xung đột khác. Trung Quốc trang bị máy bay chiến đấu và rất nhiều tàu chiến hiện đại nhất đậu xung quanh khu vực đảo Hải Nam. Hạm đội Nam Hải đóng gần bờ biển phía Bắc của Việt Nam, gần khu vực nước sâu quan trọng để đi vào Biển Đông và các vùng biển phía dưới.
Các tướng quân đội Việt Nam thừa nhận với khách nước ngoài là họ biết giới hạn của mình. Hai thập niên ngân sách quốc phòng tăng hai chữ số đã giúp Trung Quốc có một lực lượng hải quân, không quân và quân đội mạnh mẽ và hùng mạnh hơn nhiều.
Các phái viên quân sự nước ngoài nói họ vẫn chưa nắm được khả năng thực sự cũng như khả năng sử dụng vũ khí mới phức tạp của quân đội Việt Nam. Họ gần như không được ra ngoài các phòng họp ở Hà Nội.
Các chiến lược gia quân sự Việt Nam nói đang tạo ra “Khả năng phòng thủ chủ động tối ưu” – khiến chi phí của bất cứ động thái nào của Trung Quốc chống lại Việt Nam sẽ tăng vọt, cho dù có xảy ra đối đầu trên biển hay tấn công trên bộ dọc theo đường biên giới 1.400km giữa hai nước.
Ông Carl Thayer nói nếu xung đột xảy ra, Hà Nội có thể nhắm vào các tàu container thương mại và tàu chở dầu có gắn cờ Trung Quốc trên Biển Đông. Ông nói thông tin này được các chiến lược gia Việt Nam cho biết.
Mục tiêu không phải là đánh thắng lực lượng hùng mạnh của Trung Quốc mà là “gây ra những tổn thất thực sự và bất an tinh thần, khiến tỷ giá lãi suất của bảo hiểm Lloyd tăng phi mã và khiến các nhà đầu tư nước ngoài hoảng loạn” – Ông Carl Thayer trình bày trong một thuyết trình tại hội nghị ở Singapore tháng trước.
Bộ Ngoại Giao Việt Nam không bình luận gì về bài báo này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét