Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2016

70 mươi năm qua, nền chính trị của chúng ta hầu như không thay đổi

Đảng cần nghiêm khắc đánh giá lại chính mình

22/01/2016 12:57 GMT+7
TTO - Trong phiên thảo luận các văn kiện Đại hội Đảng XII, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Bùi Quang Vinh cho rằng việc đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ, đổi mới về kinh tế là một yêu cầu hết sức cấp bách. 
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Bùi Quang Vinh - Ảnh: Tuổi Trẻ
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Bùi Quang Vinh - Ảnh: Tuổi Trẻ
Trong phiên thảo luận về dự thảo các Văn kiện tại Đại hội lần thứ XII của Đảng, ông Bùi Quang Vinh (Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư) đã có bài phát biểu tâm huyết về nội dung “xây dựng một nước Việt Nam thịnh vượng”. Tuổi Trẻ xin lược trích bài phát biểu này.
Phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa
Theo Bộ trưởng Bùi Quang Vinh, những thành tựu của công cuộc đổi mới là không thể phủ nhận, và đó cũng chính là nguyên nhân giúp Việt Nam vượt qua thách thức trong hơn 30 năm qua.
Tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn là một nước nghèo, chúng ta chưa bằng lòng, thỏa mãn với những gì đạt được, nhất là khi chúng ta nhìn lại mình trong tương quan với các nước bên cạnh có cùng điều kiện như chúng ta.

Có lẽ ít ai biết rằng đầu thế kỷ XIX, vào năm 1820, Việt Nam đã có vị thế rất đáng nể trong khu vực về dân số cũng như về quy mô kinh tế, lớn hơn cả Philippines và Myanmar cộng lại, gấp hơn 1,5 lần Thái Lan. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam khi đó xấp xỉ mức trung bình của thế giới.
Hiện nay tính theo số liệu năm 2014, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng chưa đến 1/5 mức trung bình của thế giới, cụ thể là 2.052 USD trên khoảng gần 12.000 USD bình quân của thế giới, mức này chỉ bằng hơn 1/3 thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan.
Mọi sự so sánh đều khập khiễng, vì trong lịch sử Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc kháng chiến chống xâm lược và thống nhất đất nước. Nhưng, chúng ta cũng đã có hơn 40 năm sống trong hòa bình và độc lập, 30 năm đổi mới.
Đây là thời gian dài tương đương với thời gian để các quốc gia và vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan đưa nền kinh tế của họ từ chỗ nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu trở thành nền kinh tế phát triển. Hơn nữa, hiện nay yêu cầu đổi mới và phát triển đối với Việt Nam càng cấp bách hơn bao giờ hết.
Thứ nhất, Việt Nam đang ở trong giai đoạn ngắn ngủi còn lại của cơ hội dân số vàng, từ 1970, thường kéo dài 50 năm. Nghĩa là đến 2020 thì Việt Nam hết cơ hội dân số vàng, ở đây chúng tôi tính thêm 5 năm là đến 2025. Như vậy chúng ta chỉ còn khoảng tối đa 10 năm.
Thứ hai, những động lực từ công cuộc đổi mới trước đây đem lại dần hết phát huy tác dụng. Bên cạnh đó, những dư địa tăng trưởng dựa trên tăng vốn đầu tư, lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên khoáng sản cũng không còn nhiều lợi thế.
Thứ ba, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Chúng ta chấp nhận hội nhập tức là chấp nhận cạnh tranh. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam là một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn.
Vì ba lý do nêu trên, Việt Nam phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả hơn nữa nếu không muốn tụt lại phía sau, nếu không muốn nền kinh tế trì trệ, kéo dài và rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp.
Làm tốt, sẽ lấy lại niềm tin
Cũng tại Hội trường này, cách đây 5 năm, vào tháng 1-2011, Đại hội XI của Đảng đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020.
Tại trang 99 nêu rõ phải kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới, đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
Nghị quyết cũng khẳng định phải lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển. Thực tế 5 năm qua, chúng ta đã tích cực đổi mới về thể chế kinh tế và đạt được một số kết quả nhất định.
Nhưng đổi mới về chính trị hầu như chưa làm, chính vì vậy mà công cuộc đổi mới trong 5 năm qua chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn.
Nhìn lại thực tế 30 năm qua, thành tựu lớn nhất, bao trùm nhất công cuộc đổi mới đó là chúng ta đã chuyển được nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Chính nó đã làm thay đổi căn bản cuộc sống của chúng ta, đưa đất nước phát tiển.
Tuy vậy, 70 năm qua, cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp trong hệ thống chính trị gần như không thay đổi.
Một hệ thống chính trị phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây, đặc biệt là trong hoàn cảnh chiến tranh, nay đã không còn phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường, thậm chí là rào cản, trở ngại cho sự phát triển.
Vì vậy trong giai đoạn tới, việc đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ, đổi mới về kinh tế là một yêu cầu hết sức cấp bách.
Đảng là người lãnh đạo cao nhất của đất nước, cần chủ động, nghiêm khắc đánh giá lại chính mình và thực hiện nghiêm chỉnh những nghị quyết mà Đại hội Đảng toàn quốc đã xác định.
Kiên quyết đổi mới cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị để hoạt động có hiệu quả hơn, thực chất hơn. Đây là nhân tố tiên quyết, quan trọng nhất cho quá trình đổi mới tiếp theo.
Làm tốt điều này, Đảng sẽ lấy lại niềm tin trong nhân dân bằng tấm gương tự đổi mới, tự lãnh đạo hiệu quả của mình đối với đất nước và dân tộc.
3 trụ cột chính
Về đổi mới thể chế kinh tế, trong tâm trọng giai đoạn tới dựa trên 3 trụ cột chính sau đây:
Một là, thịnh vượng kinh tế phải đi đôi với bền vững về môi trường. Việt Nam phải có mức tăng trưởng cao và ổn định liên tục trong 20 năm tới, với mức tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm 7%. Có nghĩa là tương đương với mức tăng trưởng GDP hàng năm 8%, để đến năm 2035 đạt mức thu nhập bình quân đầu người từ 15.000 đến 18.000 USD.
Để đạt được mục tiêu này, con đường duy nhất là phải tăng năng suất lao động… Mức tăng năng suất lao động của Việt Nam đã liên tục sụt giảm từ cuối những năm 1990 đến nay.
Hiện nay năng suất lao động của Việt Nam ở mức rất thấp so với các quốc gia trong khu vực. Điều đặc biệt, năng suất lao động ngay cả của khu vực tư nhân của Việt Nam cũng đang liên tục sụt giảm và ở mức rất thấp.
Năng suất lao động của Việt Nam thấp vì: Cơ cấu lao động rất lạc hậu. Lao động trong khu vực phi chính thức cao hơn rất nhiều so với khu vực chính thức, có tới hơn 44% lao động trong tổng số lao động của đất nước làm việc trong khu vực nông nghiệp, khu vực tạo ra giá trị gia tăng rất thấp. Nguyên nhân nữa là nền tảng kinh tế thị trường chậm hoàn thiện, các yếu tố vốn, đất đai, tài nguyên, khoáng sản chưa được phân bổ theo cơ chế thị trường, chủ yếu là mệnh lệnh hành chính.
Phải tập trung cao độ thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp trong nước mà chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân về cả số lượng và chất lượng. Coi đây là nhiệm vụ của bộ máy nhà nước các cấp. Sức khỏe của doanh nghiệp trong nước chính là sức khỏe của nền kinh tế.
Trước mắt là nâng cao cho được năng lực cạnh tranh và hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước, thông qua việc hoàn thiện và củng cố nền tảng của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quyền sở hữu tài sản và xác định các chính sách công bằng, cạnh tranh lành mạnh trong tiếp cận vốn, đất đai, tài nguyên và thông tin.
Phải thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp. Nhà nước phải tạo dựng môi trường thuận lợi, xây dựng những trung tâm hướng dẫn và đào tạo các doanh nghiệp mới khởi nghiệp, cung cấp kiến thức và nguồn vốn thông qua hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm, ngân hàng đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ các doanh nghiệp này, nhằm tạo ra một làn sóng khởi nghiệp và tinh thần doanh nghiệp mạnh mẽ trong toàn xã hội. Phải coi vị thế của doanh nghiệp là vị thế của quốc gia.
Hai là, công bằng và hội nhập xã hội, hay còn gọi là bình đẳng cho mọi người.
Ba là, nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của nhà nước. Xây dựng cơ chế hữu hiệu và kiểm soát sự cân bằng giữa ba nhánh quyền lực. Tạo ra những khuôn khổ pháp lý thúc đẩy quyền công dân. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng.
“Nước ta đang đứng trước bước ngoặt của cải cách và phát triển, thời cơ và thuận lợi rất lớn, nhưng thách thức và khó khăn cũng không hề nhỏ. Để đạt được khát vọng hướng tới một Việt Nam thịnh vương, sáng tạo, công bằng và dân chủ, chúng ta phải thực hiện cải cách trên các vấn đề nêu trên. Không thực hiện được những cải cách đó, chúng ta không thể khai thác được các cơ hội, cũng không thể vượt qua thách thức, và nguy cơ tụt hậu xa hơn, rơi vào bẫy thu nhập trung bình sẽ khó có thể tránh khỏi. Chúng tôi tin tưởng rằng những thế hệ người Việt Nam hiện nay và tương lai chắc chắn có đủ ý chí, bản lĩnh, năng lực để thực hiện thành công công cuộc đổi mới” - Bộ trưởng Bùi Quang Vinh nói.
Điều hành phiên thảo luận, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói: Bài phát biểu của Bộ trưởng Bùi Quang Vinh rất tâm huyết, thẳng thắn, nhìn thẳng vào tình hình đất nước.
“Để thực hiện mục tiêu đổi mới thể chế kinh tế, một trong ba khâu đột phá của Đảng ta, Bộ Kế hoạch và đầu tư đã chủ trì, phối hợp với Ngân hàng thế giới tập hợp những chuyên gia kinh tế hàng đầu của thế giới và trong nước để xây dựng báo cáo Việt Nam 2035, hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ.
Báo cáo này nhằm xác định nền kinh tế Việt Nam đang ở đây trong khu vực và trên thế giới. Mục tiêu, khát vọng của Việt Nam đến năm 2035 là gì? Những cản trở nào đối với sự phát triển của Việt Nam hiện nay và bằng cách nào để Việt Nam đạt tới mục tiêu của mình… 
Theo báo cáo này, thứ nhất, cần xây dựng một Nhà nước pháp quyền hiện đại, nền kinh tế thị trường đầy đủ, xã hội dân chủ, phát triển, thịnh vương cao.
Thứ hai, thúc đẩy hiện đại hoá nền kinh tế, song hành với nâng cao năng lực cạnh tranh khu vực tư nhân.
Thứ ba, phát triển năng lực đổi mới sáng tạo, lấy khu vực tư nhân làm trung tâm.
Thứ tư, bảo đảm công bằng xã hội cho các nhóm yếu thế và thúc đẩy xã hội trung lưu phát triển.
Thứ năm, phát triển bền vững về môi trường và tăng cường khả năng chống chịu biến đổi khí hậu.
Thứ sáu, gia tăng mật độ kinh tế trong quá trình đô thị hóa và tăng cường tính kết nối giữa các thành phố và vùng lân cận”.
 Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Bùi Quang Vinh
V.V.THÀNH ghi

Bài phát biểu tâm huyết, thẳng thắn của Bộ trưởng Bùi Quang Vinh

NGHĨA NHÂN - Thứ Sáu, ngày 22/1/2016 - 11:32
(PLO)- Nghị quyết Đại hội XI yêu cầu đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế. Nhưng 70 năm qua, kể cả năm năm qua, chúng ta hầu như chưa làm gì cả. Vì vậy Đảng cần nghiêm khắc đánh giá lại chính mình và thực hiện nghiêm chỉnh những Nghị quyết của Đại hội toàn quốc.

TIN LIÊN QUAN

Sáng 22-1, tại Đại hội Đảng XII, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Bùi Quang Vinh có bài tham luận với nhiều nội dung quan trọng, nóng bỏng, nhìn thẳng vào sự thật. Ông Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Đoàn chủ tịch, đánh giá: "Bài phát biểu tâm huyết, thẳng thắn, nhìn thẳng vào tình hình đất nước, có những phân tích khá quan trọng". 
PLO xin lược ghi bài tham luận này tới bạn đọc.
***
Trong giai đoạn tới, việc đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới về kinh tế là yêu cầu hết sức cấp bách. Đảng là người lãnh đạo cao nhất của đất nước cần chủ động, nghiêm khắc đánh giá lại chính mình và thực hiện nghiêm chỉnh những Nghị quyết của Đại hội toàn quốc. Kiên quyết đổi mới cơ cấu tổ chức, chức năng hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị để hoạt động hiệu quả hơn, thực chất hơn.
Đây là nhân tố tiên quyết, quan trọng nhất cho đổi mới tiếp theo. Làm được điều này, Đảng sẽ lấy lại niềm tin trong nhân dân, bằng tấm gương tự đổi mới, bằng sự lãnh đạo hiệu quả của mình với đất nước, dân tộc.
Từ 1986 đến nay, thu nhập bình quân đầu người tăng gần bốn lần, tỉ lệ hộ nghèo từ trên 50% xuống dưới 5%. Những thành tựu của công cuộc đổi mới không thể phủ nhận. Tuy nhiên, chúng ta vẫn là nước nghèo, vì thế chưa thể bằng lòng, thỏa mãn, nhất là khi nhìn lại mình trong tương quan với các nước bên cạnh có cùng điều kiện. 
Có lẽ ít ai biết rằng đầu thế kỷ 19, năm 1820, Việt Nam đã có vị thế đáng nể trong khu vực về dân số và cả quy mô kinh tế, lớn hơn cả Philippines và Myanmar cộng lại, gấp hơn 1,5 lần Thái Lan, thu nhập bình quân đầu người khi đó xấp xỉ bình quân đầu người thế giới. Còn hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của ta chỉ bằng chưa đến 1/5 mức trung bình của thế giới, bằng 1/3 Thái Lan.
Mọi so sánh đều khập khiễng, vì chúng ta phải trải qua chiến tranh, giành độc lập, thống nhất. Nhưng ta cũng đã có 40 năm sống trong hòa bình, độc lập, 30 năm đổi mới. Đây là quãng thời gian dài tương đương để các quốc gia lân cận như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đưa nước mình từ nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu trở thành quốc gia phát triển.
Hơn nữa, yêu cầu đổi mới phát triển với Việt Nam cấp bách hơn bao giờ hết.
Việt Nam đang ở trong giai đoạn ngắn ngủi còn lại của cơ hội dân số vàng, bắt đầu từ 1970, thường kéo dài 50 năm mà khoảng 2020-2025 là hết cơ hội. Như vậy chỉ còn tối đa 10 năm thời kỳ mà dân số ở độ tuổi lao động cao nhất, sau đó giảm dần.
Những thuận lợi từ công cuộc đổi mới trước đây đem lại đang dần hết tác dụng. Bên cạnh đó, tăng trưởng dựa trên tăng đầu tư, sử dụng lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên khoáng sản không còn nhiều lợi thế.
Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới. Ta chấp nhận hội nhập tức là chấp nhận cạnh tranh. Nâng cao năng lực cạnh tranh là đòi hỏi sống còn.
Vì ba lý do trên, Việt Nam cần tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả hơn nữa, nếu không muốn tụt lại phía sau, hay kinh tế trì trệ kéo dài, để rồi đất nước rơi vào nhóm thu nhập trung bình thấp.
Cũng tại hội trường này, cách đây năm năm, Đại hội XI đã thông qua chiến lược phát triển KT-XH trong đó nêu rõ phải kiên trì, quyết liệt thực hiện đổi mới, đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế. Trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong XH. Nghị quyết khẳng định phải lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất đánh giá hiệu quả quá trình đổi mới.
Thực tế năm năm qua, chúng ta đã tích cực đổi mới về thể chế kinh tế, đạt kết quả nhất định. Nhưng đổi mới hệ thống chính trị thì hầu như chưa làm. Chính vì vậy, công cuộc đổi mới năm năm qua chưa đem lại hiệu quả như mong muốn.
Nhìn lại thực tế 30 năm qua, thành tựu lớn nhất, bao trùm nhất của công cuộc đổi mới là đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Chính nó làm căn bản cuộc sống, đưa đất nước phát triển.
Tuy vậy, 70 năm qua, cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp gần như không thay đổi. Nền chính trị phù hợp với nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa trước đây, đặc biệt là trong hoàn cảnh chiến tranh, nay không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường. Thậm chí còn là rào cản, trở ngại cho phát triển.
Về đổi mới thể chế kinh tế, trọng tâm giai đoạn tới ở ba trụ cột chính:
Trụ cột 1: Thịnh vượng kinh tế phải đi đôi với bền vững về môi trường. 
Việt Nam phải có mức tăng trưởng cao, ổn định và liên tục trong 20 năm tới, với mức tăng thu nhập bình quân đầu người 7%/năm - tương đương tăng trưởng GDP 8%/năm, để đến 2035 đạt thu nhập bình quân đầu người 15-18.000 USD. Để đạt mục tiêu này, con đường duy nhất là phải tăng năng suất.
Nhà kinh tế học đoạt giải Nobel kinh tế Paul Robin Krugman đã tổng kết: “Năng suất không phải là tất cả nhưng nó gần như là tất cả. Một quốc gia có khả năng nâng cao mức sống lâu dài hay không gần như hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng nâng cao sản lượng tính trên đầu người của quốc gia đó”.
Mức tăng năng suất lao động của Việt Nam đã liên tục tụt giảm từ cuối những năm 90 đến nay khiến giờ ở mức rất thấp so với các quốc gia trong khu vực. Đặc biệt, năng suất lao động ngay trong khu vực tư nhân cũng liên tục tụt giảm, ở mức rất thấp. 
Có ba nguyên nhân chính: Thứ nhất, cơ cấu lao động rất lạc hậu. Lao động trong khu vực phi chính thức cao hơn rất nhiều khu vực chính thức. Hơn 44% lao động làm việc trong nông nghiệp - khu vực tạo giá trị gia tăng rất thấp. Thứ hai, nền tảng KTTT chậm hoàn thiện gây phương hại quyền sở hữu tài sản, giảm tính cạnh tranh trên thị trường hàng hóa. Thứ ba, thị trường các yếu tố sản xuất như vốn, đất đai, tài nguyên khoáng sản được phân bổ chưa theo cơ chế thị trường, chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính.
Phải tập trung cao độ thúc đẩy phát triển DN trong nước, mà chủ yếu là DN tư nhân Việt Nam, về cả số lượng và chất lượng, coi đây là nhiệm vụ của bộ máy nhà nước các cấp. Sức khỏe của DN trong nước chính là sức khỏe của nền kinh tế. Trước mắt phải nâng cao cho được năng lực cạnh tranh và hiệu quả cho các DN trong nước thông qua hoàn thiện, củng cố nền tảng của KTTT, đặc biệt là quyền sở hữu tài sản và xác định các chính sách công bằng, cạnh tranh lành mạnh trong tiếp cận vốn, đất đai, tài nguyên và thông tin.
Phải thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp. Nhà nước phải tạo môi trường thuận lợi. Xây dựng các trung tâm hướng dẫn, đào tạo cho các DN mới khởi nghiệp. Cung cấp kiến thức, nguồn vốn thông qua hình thức quỹ - ngân hàng đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ cho các DN này, nhằm tạo ra làn sóng khởi nghiệp cùng tinh thần DN mạnh mẽ trong XH. Phải coi vị thế của DN là vị thế của quốc gia.
Trụ cột 2: Công bằng trong hội nhập xã hội, hay bình đẳng cho mọi người.
Bên cạnh sự phát triển nhanh, vận động theo cơ chế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo và cơ hội tiếp cận các phúc lợi XH cơ bản. Do đó phải xây dựng được những chính sách đảm bảo công bằng trong phát triển cũng như cơ hội tiếp cận các dịch vụ XH cơ bản cho người dân, nhất là đối tượng yếu thế, thiệt thòi - như người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người nghèo. Đây cũng chính là tính ưu việt của CNXH, là trách nhiệm của Nhà nước trong thực thi nền KTTT định hướng XHCN và cũng là hành động thiết thực để thực hiện tốt các kế hoạch hành động của LHQ về mục tiêu thiên niên kỷ sau 2015.
Trụ cột 3: Nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của Nhà nước
Năng suất trì trệ hiện nay và môi trường yếu kém cho phát triển khu vực tư nhân là do Nhà nước còn thiếu hiệu quả. Do điều kiện lịch sử Việt Nam mà những thiết chế công đã bị thương mại hóa, manh mún, thiếu sự giám sát của người dân.
Hiệu lực của Nhà nước dựa trên: 
(1) Chính phủ được tổ chức với công chức thực tài và có kỷ luật, nỗ lực xử lý những vấn đề để tạo cấu trúc Nhà nước chặt chẽ hơn, mạnh mẽ hơn, đảm bảo chế độ chức nghiệp - thực tài. 
(2) Nguyên tắc thị trường cần áp dụng đầy đủ hơn trong hoạch định chính sách kinh tế, dựa trên cơ sở phân rõ các lĩnh vực công - tư, hạn chế xung đột lợi ích, tăng cường bảo vệ quyền tài sản, đặc biệt về đất đai. Thực thi cạnh tranh thị trường và hợp lý hóa sự tham gia của Nhà nước trong nền kinh tế. 
(3) Nâng cao hơn nữa trách nhiệm giải trình thông qua cơ chế hữu hiệu kiểm soát và cân bằng giữa ba nhánh quyền lực, tạo dựng khung khổ pháp lý thúc đẩy quyền công dân, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin chính xác và kịp thời, tăng cường vai trò các phương tiện thông tin đại chúng.
Khung khổ pháp lý của Việt Nam đã tạo không gian nhất định cho công dân tham gia vào quá trình quản trị nhà nước. Nhà nước của dân, do dân, vì dân; dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là những điều đã được khẳng định rõ trong Hiến pháp. Nhưng trên thực tế vẫn có khoảng cách giữa cam kết này với thực tiễn tham gia của công dân trong quản trị nhà nước. Quy trình bầu cử, cơ chế cho sự tham gia của các tổ chức XH chưa bảo đảm tính đại diện đích thực của người dân.
Vừa qua, Bộ KH&ĐT đã chủ trì với Ngân hàng Thế giới tập hợp các chuyên gia kinh tế hàng đầu của thế giới và trong nước, xây dựng Báo cáo Việt Nam 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ. Báo cáo này xác định nền kinh tế Việt Nam đang ở đâu trong khu vực và trên thế giới? Mục tiêu, khát vọng của Việt Nam đến 2035 là gì? Những cản trở nào cho sự phát triển của Việt Nam hiện nay? Bằng cách nào Việt Nam đạt mục tiêu của mình? 
Báo cáo nghiên cứu sâu về ba trụ cột phát triển nêu trên và sáu chuyển đổi lớn, phác thảo chiến lược phát triển thích hợp với xuất phát điểm của một nước có thu nhập trung bình thấp trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy biến động, nhằm đưa Việt Nam thành nước có thu nhập cao hoặc cận trên của nước công nghiệp trung bình cao đến năm 2035. 
Sáu mũi chuyển đổi lớn bao gồm:
(1) Xây dựng nhà nước pháp quyền hiện đại với nền KTTT đầy đủ và XH dân chủ phát triển ở trình độ cao. 
(2) Thúc đẩy hiện đại hóa nền kinh tế song hành với nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân.
(3) Phát triển năng lực đổi mới sáng tạo, lấy khu vực tư nhân làm trung tâm.
(4) Bảo đảm công bằng XH cho các nhóm yếu thế và thúc đẩy XH trung lưu phát triển. 
(5) Phát triển bền vững về môi trường và tăng cường khả năng chống chịu biến đổi khí hậu. 
(6) Gia tăng mật độ kinh tế trong quá trình đô thị hóa và tăng cường tính kết nối giữa các thành phố và vùng lân cận. 
Hy vọng rằng báo cáo này sẽ giúp ích cho các nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhất là các đồng chí trong BCH Trung ương khóa XII được trúng cử lần này nghiên cứu trong quá trình xây dựng, hoạch định chính sách của VN.
Nước ta đang đứng trước bước ngoặt của cải cách và phát triển, thời cơ thuận lợi lớn, những thách thức, khó khăn cũng không hề nhỏ. Để đạt được khát vọng hướng tới một Việt Nam thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, lựa chọn duy nhất của chúng ta là cải cách ở các vấn đề nêu trên.
Không thực hiện những cải cách đó, chúng ta không thể khai thác được cơ hội, cũng không thể vượt qua thách thức, và nguy cơ tụt hậu xa hơn, rơi vào bẫy thu nhập trung bình là khó tránh khỏi.
Tôi tin tưởng rằng những thế hệ người Việt Nam hiện nay và tương lai có đủ bản lĩnh, ý chí và năng lực để thực hiện thành công công cuộc đổi mới.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh
NGHĨA NHÂN





Sáng 22/1, tại Đại hội Đảng 12, đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam đã có bài tham luận với tiêu đề: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh”.

Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân tham luận tại Đại hội. (Ảnh: ĐCSVN)
Infonet trân trọng giới thiệu nội dung tham luận trên tới bạn đọc:
1. Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhờ sức mạnh đại đoàn kết, nhân dân ta đã đánh bại những kẻ xâm lược tàn bạo và lập nên những chiến thắng lừng lẫy trong lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại. Nhờ sức mạnh đại đoàn kết mà nhân dân ta đã chế ngự thiên nhiên, phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng các công trình văn hóa có giá trị lịch sử, mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc. 


Sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam là kết quả hợp thành của nhiều nhân tố: đó là lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đại đoàn kết đã trở thành truyền thống quý báu; ý thức độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc; sự năng động, sáng tạo, dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng hy sinh của người dân Việt Nam trong quá trình chế ngự thiên nhiên và chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Quá trình đấu tranh gian khổ của dân tộc ta ngày càng bồi đắp lòng yêu quê hương đất nước, tình đoàn kết bền chặt của cộng đồng dân cư sinh sống trên đất nước Việt Nam.

2. Kể từ khi có Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến nay, sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc ta được phát huy ngày càng cao hơn bởi có sự kết hợp nhuần nhuyễn những truyền thống quý báu của dân tộc và sự định hướng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật phát triển của loài người và tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác - Lênin, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sáng kiến thành lập, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam thành tổ chức nòng cốt phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ 9 tháng sau khi Đảng được thành lập. Đây là sự kiện chưa từng có trong lịch sử các Đảng Cộng sản và Công nhân trên thế giới trước 1945.

Dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tập hợp đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Dân tộc Việt Nam đã ghi dấu ấn trong lịch sử nhân loại: Việt Nam là nước đầu tiên trong các nước thuộc địa của thực dân Pháp trên thế giới tự mình giành lại được độc lập dân tộc. Cũng nhờ sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng mà nhân dân ta đã giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng của Đảng hơn 85 năm qua. Báo cáo Chính trị của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

3. Những bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc cần được kế thừa và phát huy mạnh mẽ trong phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh hiện nay. Đó là:

Bài học 1: Nội dung, phương thức phát huy sức mạnh đại đoàn kết phải được thường xuyên hoàn thiện, bổ sung phù hợp với nhu cầu và điều kiện phát triển đất nước qua các giai đoạn.

Sau cách mạng Tháng Tám, để ngăn chặn nạn đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi mỗi người hãy đóng góp một nắm gạo, nhịn một bữa ăn để cứu đói. Chính phủ đã tổ chức Tuần lễ vàng để nhân dân, đặc biệt là các doanh nhân, thương gia, nhà tư sản góp vàng vào ngân khố quốc gia. Để hỗ trợ đồng bào các vùng thiên tai, giúp người có hoàn cảnh khó khăn có được những ngày Tết ấm áp hơn, hỗ trợ các hộ nghèo có thêm điều kiện vươn lên thoát nghèo, hàng chục năm qua, hình thức quyên góp của các cá nhân, tổ chức và Mặt trận Tổ quốc các cấp được duy trì và phát huy tác dụng tích cực. Đây chính là phương thức “Chung tay” của đại đoàn kết.

Bên cạnh đó, đại đoàn kết toàn dân tộc còn có phương thức nhân dân tự nguyện liên kết, phối hợp trong các nhóm ổn định để tổ chức các hoạt động đáp ứng nhu cầu cuộc sống ở cơ sở, như: bảo vệ môi trường, gìn giữ trật tự trị an, giữ gìn và phát huy văn hóa các dân tộc, duy tu cầu đường, trao đổi kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp...Đây là các mô hình tự quản rất đa dạng của nhân dân ở khu dân cư phù hợp với điều kiện địa lý, địa bàn, kinh tế, xã hội, dân tộc và tôn giáo.

Có thể coi đây là phương thức “Cùng làm” của đại đoàn kết vì cuộc sống của nhân dân ở mỗi cộng đồng dân cư. Vận động “Học tập và làm theo các điển hình tiên tiến” cũng là một phương thức “Cùng làm” hiệu quả của đại đoàn kết vì qua đó làm cho cách làm hay, hiệu quả cao của một người, một tập thể trở thành cách làm mới của hàng trăm, hàng ngàn người.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, năm 2014 - 2015 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chủ trì phối hợp với 6 tổ chức là Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu thanh niên xung phong, Hội Hỗ trợ gia đình liệt sỹ, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin và ngành lao động, thương binh và xã hội cả nước tiến hành tổng rà soát thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Kết quả là đã hoàn thành chương trình tổng rà soát thực hiện chính sách ưu đãi với hơn 2 triệu người có công trong cả nước, qua đó khẳng định 95,75% người có công đã hưởng đúng và đủ các chính sách, hưởng sai chỉ có 0,09%; đồng thời tạo cơ hội cho hơn 63.000 người làm hồ sơ lần đầu để được xem xét hưởng chính sách người có công.

Nếu chỉ sử dụng hơn 11.100 ủy viên văn xã ở ủy ban nhân dân cấp xã trong cả nước thì không thể hoàn thành được việc tổng rà soát thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công ở hơn 2 triệu hộ dân. Trong tổng rà soát này, hơn 200.000 tình nguyện viên là cựu chiến binh, là đoàn viên, hội viên 6 tổ chức đã tham gia, dưới sự hướng dẫn của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một ví dụ sinh động về phát huy sức mạnh đại đoàn kết thông qua phương thức “Liên kết” giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên và cơ quan quản lý nhà nước để làm được những việc tưởng chừng không thể làm được nếu chỉ dựa vào cơ quan nhà nước.

Phát huy 3 phương thức tập hợp nhân dân và các tổ chức để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc như trên (Chung tay, Cùng làm, Liên kết), thời gian qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức 3 cuộc vận động lớn: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; “Ngày vì người nghèo”; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và các hoạt động từ thiện nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa. Ba cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến hành thời gian qua đã góp phần thiết thực xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, khuyến khích sản xuất và tiêu dùng hàng Việt Nam chất lượng tốt. Năm 2015, kế thừa các thành quả và kinh nghiệm triển khai 2 cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và “Ngày vì người nghèo”, đồng thời để đáp ứng tốt hơn các đòi hỏi của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và sự phát triển của các đô thị, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có Nghị quyết về triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” giai đoạn 2016 – 2020.

Hiện nay, trong bối cảnh kinh tế thị trường ngày càng phát triển, hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng, thì phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc còn phải hướng vào mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, hội nhập quốc tế thắng lợi. Trên cơ sở các phong trào sáng tạo của thanh niên, nông dân, công nhân, phụ nữ, công chức, viên chức, nhà khoa học, doanh nhân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phối hợp với các tổ chức thành viên, các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp để hình thành phong trào "Đoàn kết, sáng tạo và tiết kiệm, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế thắng lợi” góp phần tích cực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Bài học 2. Để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình, trong đó có sứ mạng xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần không ngừng hoàn thiện cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương và chính sách, pháp luật về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991 và bổ sung, phát triển năm 2011, các quyết định 217, 218 năm 2013 của Bộ Chính trị về công tác giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, Hiến pháp năm 2013 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015.

Cùng với yếu tố quyết định là sự lãnh đạo của Đảng, đây là những tiền đề rất quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, trong đó có phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

4. Để phát huy mạnh mẽ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh trong giai đoạn hiện nay cần tập trung thực hiện 5 nhiệm vụ cụ thể như sau:

Một là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, truyền thống uống nước nhớ nguồn, nhân nghĩa, khoan dung và ý thức về sức mạnh đại đoàn kết trong quá trình phát triển đất nước. Đây là tiền đề bên trong để mỗi người dân hình thành nhu cầu tham gia vào việc xây dựng và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tích cực tuyên truyền, tổ chức học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn hiện nay, để tạo sự đồng thuận cao của nhân dân đối với con đường phát triển của đất nước và sự lãnh đạo của Đảng.

Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tích cực đóng góp vào việc tham gia xây dựng và cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để phát huy đầy đủ các lợi thế quốc gia, nhất là lợi thế về con người Việt Nam, tận dụng mọi thời cơ của giai đoạn hội nhập mới và ứng phó chủ động, hiệu quả với các thách thức, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, trong đó có các dân tộc, tôn giáo, đồng bào Việt Nam ở nước ngoài.

Bốn là, tổ chức có hiệu quả các cuộc vận động, phong trào của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên làm cho đại đoàn kết trở thành động lực, nguồn lực tinh thần và vật chất to lớn của đất nước để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn trong thời kỳ hội nhập mới hiện nay.

Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên như Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nguyện làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, thực hiện sáng tạo, hiệu quả chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.

5. Với niềm tin vào sự đổi mới và lãnh đạo sáng suốt của Đảng, vào tương lai tươi sáng của đất nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ ra sức vận động các tầng lớp nhân dân tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chung sức, chung lòng cùng Đảng và Nhà nước phát huy tối đa nội lực, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống, trong đó đặc biệt quan tâm 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tôi chân thành cảm ơn sự quan tâm, lắng nghe của các đồng chí đại biểu. Chúc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam thành công tốt đẹp./.
Infonet

Đại hội Đảng 12: Đảng bộ Quân đội góp ý dự thảo Báo cáo chính trị

Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã thay mặt Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam đọc tham luận góp ý vào Dự thảo Báo cáo chính trị, Văn kiện Đại hội tại Đại hội Đảng 12.
Sáng 22/1, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã thay mặt Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam đọc tham luận góp ý vào Dự thảo Báo cáo chính trị, Văn kiện Đại hội tại Đại hội Đảng 12.
Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam trình bày tham luận “Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong sự nghiệp tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc”. Ảnh: TTXVN
Đồng chí Ngô Xuân Lịch khẳng định: “Dự thảo các văn kiện của Trung ương thực sự kết tinh tâm huyết trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đồng thời cũng là minh chứng thuyết phục phản bác mọi luận điệu xuyên tạc, kích động, chống phá của thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị nhằm vào Đại hội 12 của Đảng”.

Theo bản tham luận của Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam, 5 năm qua, tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, thì nước ta phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Cùng với đó là những diễn biến mới phức tạp ở Biển Đông.

Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự điều hành của Chính phủ, sự phối hợp của các Ban, Bộ, ngành Trung ương và các cấp ủy, chính quyền địa phương, Đảng bộ Quân đội và toàn dân đã xử lý hiệu quả các tình huống góp phần bảo vệ vững chắc động lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước và quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng.

Trong thời gian tới, theo Đại tướng Ngô Xuân Lịch, xu thế chủ đạo vẫn là hòa bình, hợp tác, phát triển nhưng vẫn có những biến động phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, bất trắc, khó lường. Môi trường chiến lược có nhiều biến động do sự cạnh tranh chiến lược quyết liệt giữa các nước lớn; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố và các thách thức an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp với nhiều điểm mới.

Bên cạnh đó, trước xu thế hội nhập và mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh lợi ích giữa các nước, nước ta sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng hoạt động “diễn biến hòa bình ”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, tình hình biển Đông vẫn có những khó khăn, thách thức mới.

Trước những thách thức này, đồng chí Ngô Xuân Lịch đã nhấn mạnh những nội dung cốt lõi mà Quân đội tập trung trong những năm tới:
1. Tiếp tục thực hiện tốt chức năng tham mưu của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh, bền vững.

2. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với anh ninh nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

3. Đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao, thực sự là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

4. Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ Quân đội, lãnh đạo toàn quân hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và dân giao phó.
Trần Huệ - Lê Hiền

Xuất hiện những kiểu phá hoại về nhân sự rất tinh vi

Ảnh: L.Q.P









Ảnh: L.Q.P
Phó trưởng ban Tuyên giáo T.Ư, Giám đốc Trung tâm báo chí của Đại hội XII Nguyễn Thế Kỷ (ảnh) trong chiều qua đã cho biết một số vấn đề quan trọng. Ông Kỷ nói:
Theo đánh giá của Ban Giám đốc Trung tâm báo chí Đại hội XII, các phóng viên trong và ngoài nước đã đưa tin chính xác, đầy đủ, kịp thời về đại hội.

Nhiều chính đảng các nước chúc mừng
Theo Đoàn Chủ tịch, tính đến ngày 18.1, đại hội đã nhận được điện, thư chúc mừng từ 170 chính đảng, tổ chức và bè bạn quốc tế, trong đó có điện mừng từ các Đảng Cộng sản cầm quyền và đảng cầm quyền các nước láng giềng và các nước bạn bè truyền thống như: Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Nhân dân Campuchia, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Lao động Triều Tiên.
* Một số nhà báo cho rằng, việc tiếp cận thông tin chưa thuận lợi, không gian tác nghiệp còn hạn hẹp, một số thiết bị tác nghiệp như máy ghi âm còn không được mang vào trung tâm báo chí...?
- Đúng là có nhiều nhà báo phản ánh mong muốn được nhận thông cáo báo chí sớm hơn. Một số nhà báo khác bày tỏ mong muốn được tiếp cận các đồng chí lãnh đạo, nhất là các vị “tư lệnh” của một số bộ, ngành, địa phương để có những thông tin sâu hơn, sinh động hơn xung quanh các nội dung của các văn kiện trình đại hội... Chúng tôi ghi nhận mong muốn chính đáng này và sẽ cố gắng tổ chức một số cuộc trao đổi chuyên đề, cũng như đề nghị Ban tổ chức đại hội xem xét một số quy định liên quan đến an ninh để các nhà báo hoạt động tốt hơn.
* Cách đây chưa lâu, ông có trao đổi với lãnh đạo của một số bộ, ban, ngành về việc có một số thông tin mang tính bôi xấu cá nhân cũng như “khen ngợi” một số người khác, việc này là thế nào, thưa ông?
- Đúng là tôi và một số đồng chí có trách nhiệm đã có trao đổi về vấn đề này. Tùy theo mức độ, chúng tôi góp ý, khuyến cáo, phê phán hoặc bác bỏ việc làm này. Mấy ngày gần đây, “liều lượng” của hoạt động này có giảm. Tuy nhiên, lại có một hành vi khác, có thể gọi là thủ đoạn mới của một số kẻ xấu. Đó là việc họ gửi đơn thư, ý kiến đóng góp, giới thiệu, khen ngợi, thậm chí đề nghị một ai đó vào các vị trí cao hơn trong quy hoạch.
Những ý kiến này nếu chỉ đọc qua thì có người sẽ nghĩ là ý tốt, có chủ ý đề cao người được khen. Tuy nhiên, việc này có thể sẽ gây ra sự bất lợi cho chính những đồng chí được “khen”, được “giới thiệu” vì có thể họ sẽ bị hiểu lầm là đang tổ chức “lăng xê”, “vận động” cho chính mình. Chúng tôi cho rằng, đây có thể là một cách phá hoại về nhân sự rất tinh vi.
Quyền quyết định cao nhất thuộc về đại hội
Trả lời báo chí bên lề phiên khai mạc Đại hội XII, Bộ trưởng Bộ TT-TT Nguyễn Bắc Son cho biết, Quy chế bầu cử được Đại hội XII thông qua trong phiên họp trù bị quy định, Ủy viên BCH nhiệm kỳ cũ không được BCH nhiệm kỳ cũ giới thiệu thì không được ứng cử, nếu được đại hội đề cử thì phải xin rút. “Nhưng cuối cùng, quyền quyết định cao nhất vẫn là của đại hội. Ví dụ đồng chí A là Ủy viên BCH khóa cũ không được BCH khóa cũ giới thiệu để trình đại hội, tức là không có trong danh sách giới thiệu, mà được đại hội giới thiệu thì đương nhiên đồng chí đó sẽ xin rút vì đồng chí đó là Ủy viên BCH khóa cũ, chắc chắn phải chấp hành nghị quyết, quyết định của BCH khóa cũ và chấp hành Quy chế bầu cử vừa được thông qua. Nhưng rút hay không rút là do đại hội quyết định”, ông Son giải thích.
Trao đổi với các PV, Thứ trưởng Bộ TT-TT Trương Minh Tuấn cũng cho biết, những Ủy viên BCH khóa cũ không được đề cử và ứng cử, không được nhận đề cử nếu BCH khóa cũ không giới thiệu. Điều này là đương nhiên vì đã được nêu trong quy chế. Tuy nhiên, ra đại hội, nếu những đại biểu chính thức của đại hội mà không phải là Ủy viên BCH khóa cũ đề cử những người đó thì đại hội sẽ xem xét bằng cách bỏ phiếu và nếu đồng chí đó xin rút thì đại hội cũng xem xét.
Q.Duẩn
Hôm nay 22.1, đại hội sẽ thảo luận các văn kiện XII và lấy ý kiến đại biểu về dự kiến những vấn đề cần biểu quyết trong các văn kiện Đại hội XII (nếu có). Chiều 23.1, đại hội nghe báo cáo của BCH T.Ư khóa XI về công tác nhân sự BCH T.Ư khóa XII; thảo luận và biểu quyết về số lượng BCH T.Ư khóa XII.
Ngày 24.1, đại hội thảo luận về tiêu chuẩn, cơ cấu BCH T.Ư khóa XII. Các đại biểu nghiên cứu danh sách giới thiệu ứng cử, đề cử BCH T.Ư khóa XII do BCH T.Ư khóa XI chuẩn bị. Đại hội trao đổi trực tiếp về tiêu chuẩn, cơ cấu, danh sách đề cử BCH T.Ư khóa XII và nghiên cứu các tài liệu hồ sơ về nhân sự. Các đại biểu ghi phiếu ứng cử, đề cử vào BCH T.Ư khóa XII.
Ngày 25.1, Đoàn Chủ tịch thông báo tổng hợp danh sách ứng cử, đề cử (bổ sung) BCH T.Ư khóa XII đến các đoàn. Đại biểu ghi phiếu xin rút khỏi danh sách ứng cử, đề cử BCH T.Ư khóa XII (nếu có). Sau đó, Đoàn Chủ tịch họp để xem xét các trường hợp xin rút khỏi danh sách ứng cử, đề cử BCH T.Ư khóa XII... Đại hội thực hiện quy trình để biểu quyết thông qua danh sách ứng cử, đề cử, các trường hợp xin rút khỏi danh sách đề cử BCH T.Ư khóa XII; bầu Ban Kiểm phiếu.
Ngày 26.1, đại biểu tiến hành bỏ phiếu bầu cử BCH T.Ư khóa XII; Ban Kiểm phiếu báo cáo kết quả bầu cử, công bố danh sách các đồng chí trúng cử vào BCH T.Ư khóa XII.
Ngày 27.1, BCH T.Ư khóa XII sẽ họp Hội nghị lần thứ nhất bầu Bộ Chính trị, Tổng bí thư, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra T.Ư và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra T.Ư.
Ngày 28.1, đại hội họp phiên bế mạc tại hội trường.

Lưu Quang Phổ










Ban Chấp hành T.Ư nghiêm túc tự phê bình











Ông Lê Hồng Anh - Ảnh:TTXVN









Ông Lê Hồng Anh - Ảnh:TTXVN










Tại đại hội, Thường trực Ban Bí thư T.Ư Đảng Lê Hồng Anh đã trình bày Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành T.Ư khóa XI.
Báo cáo 27 trang, nêu rõ những thuận lợi, thách thức cũng như thẳng thắn đánh giá ưu khuyết điểm trong 5 năm thực hiện Nghị quyết XI của Đảng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành T.Ư Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư T.Ư.
Báo cáo kiểm điểm đã dành hơn một trang đánh giá về các vị Ủy viên T.Ư khóa XI, gồm cả chính thức lẫn dự khuyết. Theo ông Lê Hồng Anh, nhìn chung các ủy viên T.Ư tư tưởng vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng… Hầu hết các đồng chí T.Ư có tín nhiệm cao trong cơ quan và đơn vị mình phụ trách.
“Vẫn còn đồng chí chưa gương mẫu”
Báo cáo kiểm điểm nhìn nhận, vẫn còn tình trạng ủy viên T.Ư chưa thường xuyên quan tâm nghiên cứu, phát hiện và đề xuất với T.Ư những vấn đề khó khăn, bức xúc cần được giải quyết, tháo gỡ; một số ủy viên T.Ư thực hiện chưa tốt nhiệm vụ được phân công; chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm ở lĩnh vực công việc được giao… “Có đồng chí còn chậm chỉ đạo cụ thể hóa nghị quyết của T.Ư; vẫn còn đồng chí chưa gương mẫu hoặc để vợ con, người thân, cấp dưới lợi dụng làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước”, Báo cáo cho biết.
Theo báo cáo kiểm điểm, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã dành nhiều thời gian, công sức tập trung cho công tác xây dựng Đảng và tạo được nhiều chuyển biến tích cực. Trong đó, đáng chú ý là đã “ban hành Quy chế trao đổi, đối thoại về lý luận chính trị, nhằm mở rộng dân chủ, sáng tạo, phát huy trí tuệ, cống hiến của đội ngũ trí thức, chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Công tác cán bộ được quan tâm chỉ đạo và có nhiều tiến bộ. Đã tổng kết Nghị quyết XI của Bộ Chính trị khóa IX về công tác luân chuyển cán bộ, đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này. Nghiêm túc triển khai thực hiện chủ trương của T.Ư về quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nhiệm kỳ 2016 - 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo, trong đó có quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, góp phần tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng với trọng tâm là thực hiện kế hoạch, biện pháp khắc phục những hạn chế, khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4 về xây dựng Đảng và thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với một số cấp ủy và tổ chức Đảng trực thuộc T.Ư.
“Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã sửa đổi, bổ sung các quy định về xử lý kỷ luật đảng viên, về giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện T.Ư quản lý. Xem xét, kết luận xử lý kỷ luật một số cán bộ theo đúng quy định của Điều lệ Đảng. Chỉ đạo giải quyết một số đơn thư tố cáo gây dư luận phức tạp trong xã hội liên quan đến cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Ban hành quy định về giám sát cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; hướng dẫn việc thực hiện chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành T.Ư”, Báo cáo cho biết.
“Công tác đánh giá cán bộ vẫn là điểm yếu”
Bên cạnh ưu điểm là chủ yếu nêu trên, Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành T.Ư cũng chỉ ra những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng, như chưa có biện pháp khắc phục một cách căn cơ biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một số cán bộ, đảng viên. Công tác chỉ đạo, nghiên cứu, phân tích và dự báo tình hình có lúc chưa kịp thời, nhất là một số xu hướng lớn trên thế giới có tác động đến nước ta như vấn đề “cách mạng màu”, “xã hội dân sự”.
Ngoài ra, một số chủ trương đúng đắn của Đảng chậm được thể chế hóa thành pháp luật; chậm đi vào cuộc sống; công tác đánh giá cán bộ vẫn là điểm yếu, hằng năm Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa đánh giá cán bộ theo phân cấp quản lý theo Quy chế làm việc…
Báo cáo kiểm điểm thừa nhận: công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm, như kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết vẫn là khâu yếu, chuyển biến chậm; việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên kết quả chưa đạt yêu cầu đề ra. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa có nhiều chuyển biến…
“Những thiếu sót, khuyết điểm trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân quan trọng là do hoạt động, phương thức lãnh đạo của Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trên một số lĩnh vực còn hạn chế; chưa tập trung quyết liệt trong lãnh đạo tổ chức thực hiện nghị quyết; trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong một số lĩnh vực chưa rõ. Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xin nghiêm túc tự phê bình trước đại hội và toàn Đảng, toàn dân về những khuyết điểm, thiếu sót nêu trên”, Báo cáo nêu rõ.
Vô hiệu hóa nhiều phần tử nội gián
Kiểm điểm về việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại 5 năm qua, ông Lê Hồng Anh cho biết Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo xây dựng và ban hành Đề án tổng thể về Biển Đông, xử lý những vấn đề cụ thể phát sinh trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, giữ được quan hệ hợp tác hữu nghị Việt - Trung; đã kịp thời đề ra chủ trương biện pháp giải quyết có hiệu quả một số vấn đề quan trọng về quốc phòng, an ninh và có đối sách xử lý phù hợp với các vụ việc phức tạp nảy sinh. Chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường các biện pháp kiểm tra, khắc phục sơ hở, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, phát hiện và vô hiệu hóa nhiều phần tử nội gián...

Thanh Niên









Khai mạc Đại hội Đảng XII: Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ










Các đại biểu dự phiên khai mạc - Ảnh: TTXVN








Các đại biểu dự phiên khai mạc - Ảnh: TTXVN









Hôm qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng đã khai mạc trọng thể tại Hà Nội, với sự tham dự đông đủ của 1.510 đại biểu chính thức. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng điều hành phiên khai mạc.
Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cho biết Đại hội Đảng XII sẽ đi sâu kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, nhìn lại 30 năm đổi mới, rút ra những bài học, xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong 5 năm tới; đồng thời kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XI; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khóa XI; bầu Ban Chấp hành T.Ư khóa XII gồm các đồng chí tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, bản lĩnh và trí tuệ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Khai mạc Đại hội Đảng XII: Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ - ảnh 1
Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về xây dựng Đảng. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp
Khai mạc Đại hội Đảng XII: Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ - ảnh 2
Báo cáo chính trị tại Đại hội XII
Sau diễn văn khai mạc của Chủ tịch nước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thay mặt Đoàn Chủ tịch đọc báo cáo của Ban Chấp hành T.Ư khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng.
Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc
Báo cáo chính trị trình đại hội do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày nhấn mạnh đến việc tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch…Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Báo cáo khẳng định việc bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế... nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới…
Tôn trọng những điểm khác biệt
Nói về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ XHCN; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, Báo cáo khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng VN, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước VN hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc…
Tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”.
Trên cơ sở đó, thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Việc phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi...
Báo cáo nêu, 5 năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã kiên trì, nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạt được những kết quả quan trọng. Các cấp ủy, tổ chức Đảng từ T.Ư đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện bài bản, quyết liệt Nghị quyết T.Ư 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, suy thoái trong Đảng.

Dự đại hội có nguyên Tổng bí thư: Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh; nguyên Chủ tịch nước: Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết; nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An; các vị nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên T.Ư Đảng, nguyên phó thủ tướng, nguyên ủy viên T.Ư Đảng; các bà mẹ VN anh hùng, các nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, chức sắc tôn giáo tiêu biểu.
Tuy nhiên, trong thực hiện Nghị quyết T.Ư 4, một số việc chưa đạt mục tiêu đề ra. Trong tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến; một số cán bộ, đảng viên chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước những hạn chế, khuyết điểm trong công việc được giao. Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp từ T.Ư đến cơ sở vẫn chưa làm rõ thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình, xảy ra ở đâu, ai chịu trách nhiệm. Việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định của Đảng và Nhà nước theo hướng đề cao hơn trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu trong mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân chưa thực hiện được. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước…
Báo cáo nhấn mạnh trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 khóa XI. Các cấp ủy, tổ chức Đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ T.Ư đến cơ sở phải nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về xây dựng Đảng. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp.
Bên cạnh đó, đổi mới công tác bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ... để lựa chọn những người thực sự có đức, có tài giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Đồng thời, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức Đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên, công khai kết quả xử lý.
Những nhiệm vụ trọng tâm
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn đặt ra trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Tổng bí thư nhấn mạnh đến 6 nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện khi triển khai toàn diện, đồng bộ nghị quyết của đại hội trên các lĩnh vực. Trong đó, nhiệm vụ số 1 đặt ra là tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Nhiệm vụ đáng chú ý khác là tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược; cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

Thanh Niên


Bên trong Trung tâm Chỉ huy bảo vệ Đại hội Đảng


Tại Đại hội Đảng lần này, các thiết bị an ninh, công nghệ tối tân nhất đã được lực lượng Công an triển khai. Hệ thống thông tin, camera tại Trung tâm chỉ huy được đầu tư với nhiều máy móc hiện đại.
Để bảo vệ tuyệt đối an toàn cho Đại hội lần thứ XII của Đảng, những ngày này những cán bộ chiến sĩ lực lượng Công an nhân dân thuộc Trung tâm chỉ huy Bộ Công an tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình đang nỗ lực hết mình, trắng đêm bám sát những địa bàn, thực hiện tốt công tác giữ gìn, đảm bảo an ninh trật tự, bảo vệ tuyệt đối an ninh an toàn cho Đại hội lần thứ XII của Đảng. 
6h30 sáng 21/1, tại Trung tâm Chỉ huy của Bộ Công an đóng tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình nơi diễn ra Đại hội lần thứ XII của Đảng không khí làm việc vô cùng khẩn trương, bận rộn bởi những cuộc điện đàm liên tục báo về Trung tâm chỉ huy.
Gần 50 chiếc màn hình camera đang không ngừng truyền tải, cập tất cả hình ảnh, thông tin trên các trục đường dẫn vào Trung tâm Hội nghị Quốc gia và các khu vực trung tâm của Thành phố Hà Nội.
Tại màn hình camera số 1 cho thấy đoàn xe chở các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đang được lực lượng Cảnh sát Giao thông làm nhiệm vụ hộ tống dẫn đoàn đã tiến vào cổng chính của Trung tâm Hội nghị.
Hình ảnh của các Đoàn Đảng bộ địa phương và Trung ương dự Đại hội đang di chuyển từ các tuyến đường trung tâm về Trung tâm Hội nghị cũng đang liên tục được cập nhật truyền trên hệ thống camera chỉ huy. Đồng thời những thông tin, hình ảnh về tình hình an ninh, trật tự trên cả nước cũng đang được Công an 63 tỉnh, thành phố cập nhật liên tục, chính xác về Trung tâm chỉ huy.
Bên trong Trung tâm Chỉ huy bảo vệ Đại hội Đảng - ảnh 1Bộ trưởng Trần Đại Quang kiểm tra công tác bảo vệ an ninh Đại hội Đảng.
Là người chỉ huy đã từng nhiều lần trực tiếp tham gia bảo vệ các sự kiện chính trị trọng đại lớn của đất nước và các Kỳ Đại hội Đảng, Thiếu tướng Nguyễn Quang Hùng, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ cho biết: Từ nhiều ngày nay trước khi diễn ra Đại hội, các đơn vị chiến đấu tinh nhuệ nhất của Bộ Công an thuộc các Tổng cục An ninh, Tổng cục Cảnh sát, Tổng cục Hậu cần – Kỹ thuật, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động, Bộ Tư lệnh Cảnh vệ… cùng với các đơn vị chức năng của Bộ Quốc phòng đã được lệnh làm nhiệm vụ trực chiến đấu 24/24 giờ bất kể ngày đêm.
Yêu cầu cao nhất trong những kế hoạch, phương án bảo vệ được đồng chí Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh, Trưởng Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội XII của Đảng cùng Đại tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an quán triệt đến toàn thể cán bộ chiến sĩ là chủ động nắm chắc mọi tình hình trong mọi tình huống, chủ động kiểm soát, dự báo sát, đúng tình hình, tham mưu xử lý kịp thời các vấn đề phức tạp nảy sinh có liên quan để nhanh chóng giải quyết từ cơ sở.
Triển khai kế hoạch phối hợp giữ vững an ninh chính trị, chấp hành nghiêm chế độ thông tin báo cáo, mọi tình hình diễn biến liên quan đến công tác bảo vệ Đại hội để kịp thời báo cáo về Thường trực Tiểu ban An ninh, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng xử lý. Mọi phương án, kế hoạch đều được lãnh đạo Trung tâm Chỉ huy Bộ Công an vạch ra một cách cụ thể, chi tiết, tỷ mỷ an ninh được đặt ra cao nhất, nghiêm ngặt từ khu vực vòng ngoài dẫn vào tiền sảnh, hội trường Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình đến toàn bộ những khu vực bố trí đường vào, nơi ở của các Đoàn đại biểu Đảng bộ địa phương và Trung ương dự Đại hội.
Bên trong Trung tâm Chỉ huy bảo vệ Đại hội Đảng - ảnh 2Lãnh đạo Trung tâm Chỉ huy Bộ Công an báo cáo với Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh, lãnh đạo Bộ Công an phương án bảo vệ Đại hội.
Tại Đại hội Đảng lần này, các thiết bị an ninh, công nghệ tối tân nhất đã được lực lượng Công an triển khai. Hệ thống thông tin, camera tại Trung tâm chỉ huy được đầu tư với nhiều máy móc hiện đại kết nối, nối liền với hàng trăm điểm cầu trên toàn quốc có thể giám sát mọi diễn biến hoạt động, bảo đảm an ninh các khâu thông suốt, linh hoạt, nhịp nhàng và kịp thời, chính xác.
Tại Thủ đô Hà Nội, 500 điểm hình từ khắp các địa bàn sẽ được thường xuyên kết nối, theo dõi để lực lượng làm nhiệm vụ cập nhật liên tục, chủ động xử lý mọi tình huống có thể xảy ra từ cơ sở… Một cán bộ trong tổ trực thông tin của Trung tâm Chỉ huy cho biết cho đến giờ này, Lễ Khai mạc Đại hội cùng  các sự kiện quan trọng của Đại hội và toàn bộ các mục tiêu trọng điểm đã được bảo vệ tuyệt đối an toàn không để xảy ra ùn tắc giao thông, cháy nổ, tình hình an ninh trật tự được đảm bảo…
Bên trong Trung tâm Chỉ huy bảo vệ Đại hội Đảng - ảnh 3Các hình ảnh camera tại Trung tâm chỉ huy Bộ Công an.
Sự kiện chính trị trọng đại lớn của đất nước đang được lực lượng Công an nhân dân nỗ lực bảo vệ tuyệt đối an toàn giữa lòng Thủ đô Hà Nội hòa bình và hiếu khách. Thành công của Đại hội XII có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc ta, đất nước ta trong đó có những đóng góp xứng đáng của lực lượng Công an nhân dân. 
Theo Công An Nhân Dân


ồng Anh: Có nhiều ‘nội gián’ trong chính quyền Việt Nam



HÀ NỘI (NV) - Ðó là điều mà ông Lê Hồng Anh, thành viên thường trực của Ban Bí Thư, Ban Chấp Hành Trung Ương (BCH TƯ) Ðảng CSVN khóa 11, báo cáo với các đại biểu dự Ðại Hội Ðảng CSVN lần thứ 12.

Khi trình bày báo cáo để kiểm điểm về việc chỉ đạo của BCH TƯ Ðảng CSVN khóa 11, ông Anh cho biết, đối với việc chỉ đạo trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh, suốt nhiệm kỳ vừa qua, giới lãnh đạo Ðảng CSVN đã thực hiện đúng “Nghị quyết về chiến lược bảo vệ tổ quốc,” vẫn bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng CSVN đối với quân đội, công an.
Ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng đương nhiệm bước vào hội trường dự Ðại Hội Ðảng CSVN 12. Gần như chắc chắn nhân vật này sẽ phải ra đi. (Hình: VietNamNet)

Theo lời nhân vật này thì Bộ Chính Trị và Ban Bí Thư của Ðảng CSVN nhiệm kỳ vừa qua đã xây dựng và ban hành “Ðề án tổng thể về biển Ðông” và đã “xử lý những vấn đề cụ thể phát sinh trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Giữ vững độc lập, chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.”

Ðặc biệt là “giữ được quan hệ hợp tác hữu nghị Việt-Trung.” Khi xảy ra những vụ biểu tình, bạo động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoại quốc ở một số địa phương, giới lãnh đạo Ðảng CSVN đã có những “chỉ đạo kịp thời nhanh chóng ổn định tình hình, khắc phục hậu quả, lấy lại niềm tin của giới đầu tư ngoại quốc.”

Ông Anh tiết lộ thêm là giới lãnh đạo Ðảng CSVN đã chỉ đạo các cơ quan hữu trách gia tăng các biện pháp “bảo vệ chính trị nội bộ” và đã “phát hiện, vô hiệu hóa nhiều phần tử nội gián” song lại không đề cập đến chuyện những “phần tử” này làm “nội gián” cho ai, như thế nào và từ khi nào.

Nhân vật là thường trực của Ban Bí Thư, BCH TƯ Ðảng CSVN khóa 11, báo cáo là giới lãnh đạo Ðảng CSVN đã “giải quyết có hiệu quả một số vấn đề quan trọng về quốc phòng, an ninh và đề ra đối sách xử lý phù hợp với các vụ việc phức tạp.”

Các cơ quan hữu trách đã được yêu cầu gia tăng các biện pháp kiểm tra, khắc phục sơ hở, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin Internet. Gia tăng bảo vệ chính trị nội bộ, “chủ động đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động thành lập tổ chức chính trị đối lập ở trong nước,” cũng như “âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc để chống phá Ðảng CSVN.”

Giới lãnh đạo Ðảng CSVN đã ban hành một số chỉ thị để “bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới.”

Cần nhắc lại rằng, tuy nhân vật là thường trực của Ban Bí Thư, BCH TƯ Ðảng CSVN khóa 11, khẳng định là đã gia tăng các biện pháp “bảo vệ chính trị nội bộ” nhưng trên thực tế, việc các băng nhóm trong Ðảng CSVN sử dụng Internet để tấn công nhau càng ngày càng quyết liệt. Việc dung đủ mọi chiêu, trò bẩn thỉu, hạ cấp nhằm bôi nhọ, hạ bệ nhau đã góp phần bạch hóa nhiều thông tin thuộc loại “bí mật quốc gia” vì liên quan đến khả năng, tư cách của các viên chức lãnh đạo Việt Nam, khiến dân chúng Việt Nam càng thêm chán ngán và bất bình.

Liên quan tới việc lựa chọn giới lãnh đạo Ðảng CSVN cho nhiệm kỳ sắp tới qua đại hội Ðảng CSVN lần này, cuộc chiến giành quyền lực giữa các băng nhóm trong Ðảng CSVN dường như đã kết thúc. Xác suất ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng đương nhiệm của Việt Nam phải nghỉ hưu, chứ không thể trở thành tổng bí thư kiêm chủ tịch nhà nước như nhiều người dự đoán hiện nay đã lên rất cao.

Hôm Thứ Tư, 1510 đảng viên đại diện cho 4.5 triệu đảng viên CSVN đã họp phiên trù bị, chuẩn bị cho đại hội chính thức sẽ diễn ra trong tám ngày, từ 21 đến 28 tháng này. Trong phiên họp trù bị, các đại biểu tham dự Ðại Hội 12 của Ðảng CSVN đã bỏ phiếu thông qua “Quy chế bầu cử.”

Theo đó, nếu không được BCH TƯ Ðảng CSVN khóa trước giới thiệu tái cử thì các ủy viên BCH TƯ Ðảng CSVN khóa trước sẽ không được ứng cử, đề cử hoặc nhận đề cử mà ông Dũng lại không nằm trong danh sách được giới thiệu tái cử. Có xác suất rất cao ông Nguyễn Phú Trọng sẽ tiếp tục là tổng bí thư Ðảng CSVN. Tuy nhiên vẫn không thể loại trừ trường hợp có đột biến vào giờ chót.

Ngày 21, trả lời báo chí về “Quy chế bầu cử,” viên bộ trưởng Thông Tin-Truyền Thông của chính phủ Việt Nam, đồng thời cũng là một ủy viên BCH TƯ Ðảng CSVN khóa trước, mới nhận mạnh, dẫu không được ứng cử, đề cử hoặc nhận đề cử nếu không nằm trong danh sách được giới thiệu tái cử” nhưng “quyền quyết định cao nhất vẫn thuộc về các đại biểu tham dự Ðại Hội Ðảng CSVN lần này” bởi “điều đó thể hiện dân chủ trong đảng.” (G.Ð)

(Người Việt)

Vững vàng trước mọi tấn công của thế lực thù địch

- Đại tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Công an nhấn mạnh: “Trung thành với Đảng, Tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân”.
Thảo luận tại Đại hội Đảng 12 sáng nay, Đại tướng Trần Đại Quang lưu ý tình hình phức tạp trên thế giới và trong khu vực.
“Đối với nước ta, các thế lực thù địch, phản động ráo riết thực hiện chiến lược ‘diễn biến hòa bình’, ‘bạo loạn lật đổ’, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN. Các cơ quan đặc biệt nước ngoài tập trung tấn công, thâm nhập, tác động, hòng triệt phá, tạo dựng các nhân tố chống đối trong nội bộ, đẩy mạnh tập hợp lực lượng đối lập trong nội địa nhằm tiến hành cái gọi là ‘cách mạng màu’ ở VN”, ông Trần Đại Quang nói.
Đại hội Đảng 12, Bộ trưởng công an, trần đại quang, khủng bố, chủ quyền
Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang. Ảnh: TTXVN
“Số đối tượng chống đối trong nước cấu kết chặt chẽ với bọn phản động bên ngoài, hoạt động chống phá quyết liệt. Những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ ngày càng phức tạp và nguy hiểm hơn, tình trạng lộ lọt bí mật nhà nước rất nghiêm trọng, các hội nhóm trái pháp luật hoạt động ngày càng công khai, thách thức, tình hình tội phạm vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp…”.
Trước tình hình đó, lực lượng công an đã đổi mới nhiều chủ trương, đối sách, giải pháp, hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
“Kết hợp chặt chẽ an ninh, quốc phòng với kinh tế, đối ngoại, xử lý kịp thời những vấn đề phức tạp nảy sinh, nhất là những vấn đề liên quan đến bảo vệ chủ quyền biển đảo, giữ vững thế chủ động chiến lược, không để xảy ra khủng bố, phá hoại, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nội địa”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Bên cạnh đó là các thành tích trong đấu tranh phòng chống tội phạm, tham nhũng, ma túy… Tất cả đều nhờ vào sự lãnh đạo của Đảng và sự giúp đỡ của nhân dân.
Đại tướng Trần Đại Quang chia sẻ 5 bài học rút ra của lực lượng công an: sự lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối về mọi mặt của Đảng; đổi mới công tác công an coi trọng chất lượng, hiệu quả, phục vụ nhân dân; phối hợp, hiệp đồng; xây dựng lực lượng trong sạch, vững mạnh, cán bộ giỏi; mở rộng quan hệ đối ngoại…
Trong thời gian tới, với tình hình trong nước và quốc tế ngày càng phức tạp, Bộ trưởng Công an nhận định phòng chống tội phạm sẽ vẫn là mặt trận nóng bỏng.
Ông đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của lực lượng công an: quán triệt và thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng; nâng cao năng lực nắm tình hình, phân tích dự báo, nhận diện sớm các nguy cơ về an ninh; kịp thời triệt phá các tụ điểm phức tạp về trật tự xã hội, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, không để lọt tội phạm, không để oan sai…
“Tạo ra thế trận toàn dân phòng chống tội phạm ngay từ cơ sở, góp phần xây dựng xã hội an toàn, kỷ cương, lành mạnh, chấp hành pháp luật, không còn bất an trong nhân dân. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: ‘Ban đêm không cần đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi’”.
Bộ trưởng Công an cũng nhấn mạnh sự cần thiết của cải cách hành chính, công khai, minh bạch trong quản lý và giải quyết công việc cho người dân và doanh nghiệp. Bên cạnh đó là chủ động nghiên cứu, sản xuất thiết bị kỹ thuật, vũ khí, công cụ hỗ trợ phù hợp với tính chất công tác, chiến đấu của lực lượng công an nhân dân.
“Mỗi cán bộ chiến sĩ công an thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý chí chiến đấu, tinh thần cách mạng tiến công, học tập và hành động theo 6 điều Bác Hồ dạy công an nhân dân, chủ động, kỷ cương, trách nhiệm, hiệu quả, luôn vững vàng trước mọi sự tấn công của các thế lực thù địch, những cám dỗ, tiêu cực từ mặt trái kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện ngại khó, ngại khổ, lơ là trách nhiệm trong công tác, tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thực hiện tốt văn hóa ứng xử, xây dựng hình ảnh thân thiện, nhân văn…”, ông Trần Đại Quang nói.
Bộ trưởng Công an nhấn mạnh: “Trung thành với Đảng, Tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân”.
Chung Hoàng

Không có nhận xét nào: