Với tư cách một người dân TP gã sẽ trả lời những câu hỏi này một cách đầy đủ hơn theo chủ quan của gã, nếu ngài muốn nghe. Nhưng trước hết gã thấy rõ cái điều mà bất cứ người dân nào như gã cũng thấy đó là TP đang thiếu một Cơ chế Diên Hồng (chứ không chỉ là một hội nghị) giành cho các tài năng thật sự và có tâm huyết với TP thật sự bất kể họ có nguồn gốc thế nào, chính kiến ra sao..
“TP HCM thiếu cái gì?” đó là câu hỏi rất thú vị, rất cấp thời, rất chiến lược của ngài Đinh La Thăng tại cuộc hội nghị các lãnh đạo chủ chốt cao nhất của TP. Hỏi xong ngài nói: “Chúng ta có đủ điều kiện về dân số, con người cần cù sáng tạo, truyền thống cách mạng kiên trung từ bao đời. Không thể chấp nhận TP HCM không đứng số 1”. Rồi ngài hỏi như là trả lời câu hỏi “TP HCM thiếu cái gì” của chính ngài : “Phải chăng TP đang thiếu chí khí quật cường, sự đoàn kết, lòng dũng cảm đã có từ thời chiến tranh. Vì vậy phải tạo ra sức mạnh tinh thần, khí thế hừng hực như thời chiến tranh, đồng thuận xã hội để dẹp mọi gian khó, đưa TP tiến nhanh, mạnh hơn”.
Ngài Đinh La Thăng mà gã vô cùng trân trọng ơi, lần này ngài trật lất rồi.
Vì, ngài hỏi nhưng chưa nói được là TP mà ngài và những người lãnh đạo muốn nhất là nhất cái gì?
Vì, ngài và những người lãnh đạo TP chưa hề có được cuộc trưng cầu người dân TP để biết đa số người dân TP muốn cái gì chứ chưa nói chuyện muốn nhất cái gì. Chính ý muốn, khát vọng của 10 triệu người dân TP mới là ý kiến quyết định chứ không phải ý muốn chủ quan của các ngài.
Thưa ngài, những “phải chăng” của ngài chỉ là câu chuyện tinh thần duy ý chí của thời chiến tranh. Chiến tranh chỉ là một lát cắt của cuộc sống. Những gì là thế mạnh của chiến tranh không thể tiêu biểu và trở thành công thức thành công cho cuộc sống như nó vốn có, như nó bắt buộc phải có, cuộc sống của hòa bình. Cái tức thời, cái một thời luôn là cái nhỏ bé trong cái muôn thời, thưa ngài.
Vậy thì , ai sẽ trả lời câu hỏi rất hay của ngài “TP thiếu cái gì?” để phát triển, để là thành phố đáng sống, nghĩa tình, giàu có?
Gã không “xin” vì bản thân ngài rất ghét chữ “xin” này mà gã đề nghị ngài trước mắt hãy như đức thượng hoàng Trần Thánh Tông năm 1284 trước bước ngoặt lịch sử liên quan đến mất còn dân tộc đã tổ chức Hội nghị Diên Hồng để lắng nghe tiếng nói của những đại diện của dân.
Gã theo dõi từng cuộc gặp gỡ của ngài với đủ các tầng lớp. Gã theo dõi các cuội hội nghị của ngài với lớp trẻ do lãnh đạo Đoàn tổ chức, chọn lựa, và cả cuộc hội nghị lãnh đạo TP vừa xong, thì thưa ngài đó không hề là Hội nghị Diên Hồng vì ở đó còn thiếu vắng quá nhiều những người ưu tú, tài năng, tâm huyết nhất trong 10 triệu người dân TP.
Còn những ai là những con người đó và tìm họ ở đâu, thì gã muốn kể cho ngài nghe một câu chuyện liên quan tới một nhân vật mà có thể ngài biết đó là kĩ sư Lý Trọng từng là người tài năng, năng nổ trên công trường Thủy điện Hòa Bình mà chính ngài từng có thời là kế toán trưởng cũng rất năng nổ và tài năng ở công trường đó.
Khi cha gã là một văn nghệ sĩ đi thực tế tại công trường, đi đâu ông cũng nghe công nhân, kĩ sư, chuyên gia Liên Xô ngợi khen kĩ sư Lý Trọng. Cha gã đã tìm gặp con người của công trường đó và ông với cảm nhận tinh tế của mình đã không khó nhận ra tài năng và tấm lòng cũng như tình thương yêu đồng đội, niềm say mê công việc của chàng kĩ sư trẻ này. Nhưng ông ngạc nhiên là Lý Trọng không thể được lên những vị trí lãnh đạo quan trọng nhất chỉ vì không phải là đảng viên.
Tại sao Lý Trọng không được kết nạp Đảng?
Bản thân gã có nhiều lần gặp và trao đổi với Lý Trọng, ông thú thật với gã rằng: Cái tội của tớ là không chấp nhận được mấy thằng cha dốt lại muốn đòi chỉ đạo tớ. Cái tội của tớ là không biết ...nịnh.
Cha gã có lần gặp ông Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng đem chuyện Lý Trọng ra kể rồi than phiền với ông Thọ rằng lãng đạo của nước ta quá thiếu tài năng và cũng không biết trân trọng các tài năng. Ông Thọ nói: Chả kiếm đâu ra tài năng. Cha gã bảo, các anh không kiếm đâu ra vì các anh chỉ để ý đến những người xung quanh các anh, những người các anh thấy vừa lòng mình, không nói trái ý mình làm tiêu chuẩn đầu tiên. Nếu các anh mở rộng vòng tìm kiếm ra, lấy hiệu quả công việc làm tiêu chuẩn đầu tiên thì tôi tin đất nước này không thiếu những tài năng lãnh đạo, cũng như không thiếu những tài năng đóng góp cho đất nước.
TP HCM thiếu cái gì? Và làm thế nào để TPHCM trở thành một TP đáng sống?
Với tư cách một người dân TP gã sẽ trả lời những câu hỏi này một cách đầy đủ hơn theo chủ quan của gã, nếu ngài muốn nghe. Nhưng trước hết gã thấy rõ cái điều mà bất cứ người dân nào như gã cũng thấy đó là TP đang thiếu một Cơ chế Diên Hồng (chứ không chỉ là một hội nghị) giành cho các tài năng thật sự và có tâm huyết với TP thật sự bất kể họ có nguồn gốc thế nào, chính kiến ra sao.
Ngài Lê Nin lãnh tụ vĩ đại của ngài từng nói: Hãy cho tôi 1000 tài năng tôi sẽ thay đổi toàn bộ nước Nga.
Đó là lời nói rất đúng. Chỉ tiếc là 1000 tài năng đó xuất hiện thì ngài Lê Nin đã không còn nữa để người kế tục là Xtalin biến họ thành công cụ cho mục đích độc tài của mình dẫn đến thui chột và bị tiêu giệt gần hết những tài năng đó.
Bài học ấy chắc ngài có thể không khó để học được từ nước Nga thời Xtalin và từ cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông .
Lưu Trọng Văn
(FB Lưu Trọng Văn)
Bùi Văn Bồng - Nỗi sợ của lãnh đạo dốt, tham, thiếu tự tin, không bản lĩnh
Đăng bởi Trung Lập on Thứ Hai, ngày 28 tháng 3 năm 2016 | 28.3.16
Tại sao lãnh đạo thường có thói quen ‘cứ theo nếp cũ mà làm’, ngại, sợ đổi mới, bởi họ thấy sự ổn định đang có ấy thực sự có lợi cho chính bản thân họ và nhóm lợi ích của họ. Nếu gọi đó là biểu hiện của ‘chủ nghĩa cá nhân’ cũng không sai. Có vẻ như mâu thuẫn, nhưng là thực chất: lãnh đạo không xứng tầm thường rất sợ đổi mới, rất sợ sự phát triển cao của khoa học-công nghệ và sơ cả sự phát triển cao trình độ dân trí. ‘Ngu dân để trị’ cũng là cách thức của nhiều vị vua chúa. Dân chủ thường là khái niệm xa lạ mà những vị lãnh đạo coi đó như sự rung dọa quyền lực của mình.
Chẳng qua lãnh đạo thấy mình còn kém khôn, chỉ số IQ còn quá thấp. Động cơ của họ là phải để cho ‘ngu dân’ thì sự nhận ra yếu kém của lãnh đạo, mặt trái của chế độ mà họ đang trọng trách trị vì ít ai thấy, và mong họ chỉ biết tôn sùng lãnh đạo. Còn nữa, dân trí thấp, hiểu biết chính trị-pháp luật của người dân kém, không nên phổ quát nâng cao trình độ hiểu biết cho dân, sẽ ít có những phản biện, phản bác làm lộ cái sai, cái yếu kém của lãnh đạo…Bởi, họ tự thấy khả năng nhận thức, khả năng quản lý của họ chỉ đến vậy, cao hơn nữa họ không theo kịp, sợ (do đó) mất uy tín ‘nhà lãnh đạo’! Thế nên, cứ ‘ngựa quen đường cũ’, theo ‘nền nếp cũ’ mà làm, sẽ được an toàn, sẽ giữ được ‘ổn định chính trị’ hiệu quả nhất cho cái ghế trị vì của họ. Hơn nữa, tính ‘bảo thủ công trình’ mang đậm nét cá nhân cũng không kích ứng họ chịu và dám thay đổi. Nhà (người) lãnh đạo tự mình đã vạch ra con đường tiến triển nào đó cho xã hội thường rất tin tưởng và tự hào, nếu thay đổi nó sẽ coi như ‘công trình trí tuệ’ bị phá vỡ. Tâm lý ‘người đặt nền móng’, người nổi tiếng, động cơ mang ‘dấu ấn lịch sử’ thường dẫn tới tư duy bảo thủ, giáo điều. Họ cũng đủ khôn để nhận ra rằng: Sự phát triển cao của khoa học-công nghệ là một trong những nguyên nhân đe dọa vị thế cầm quyền của họ. Nay, nhiều lãnh đạo chủ chốt từ Trung ương đến bộ, ngành, cơ sở trình độ còn quá thấp so với mặt bằng giáo dục đào tạo chung, không thể theo kịp thời đại. Văn hóa nhiều vị chưa hết cấp 2, các văn bằng chỉ là sự ‘ban thưởng’ của chính sách, sự chạy chọt bằng nhiều thủ đoạn nhằm hợp thức hóa hồ sơ, lý lịch, đủ tiêu chuẩn để có cấp chức, những văn bằng rởm, thực chất trình độ, nhân cách, phong cách, văn hóa giao tiếp, lối sống của họ còn quá kém, chưa xứng tầm ngồi ở ghế chức quyền ấy.
Những lãnh đạo mà tâm và tầm chỉ đến thế lại rất sợ dân chủ. Tiếng nói dân chủ là 'khắc tinh' của họ. Họ ngán ngại, thậm chí thù ghét, thưởng 'để mắt coi chừng' những người có trình độ cao hơn, đạo đức hơn, hiểu biết hơn, nhất là lại biết rõ về họ và có khả năng 'ngồi thay' vào ghế quyền lực của họ. Những tiếng nói dám phê phán, phản biện thường bị quy chụp là 'động cơ chống đối'; là 'thế lực thù địch'; không khéo, biết đâu lại 'diễn biến hòa bình', âm mưu lật đổ ...
Lãnh đạo ngu dốt, thiếu tự tin, không bản lĩnh thường sinh ra bảo thủ, giáo điều, và cả tội ác. Do vậy, họ phải trang bị cho mình những ‘phép’ giữ ghế, tập trung chủ yếu ở 4 thủ cách như sau:
Thứ nhất: Đã kém thì phải tự trang bị cho mình có ‘thế mạnh’. Thế mạnh đó phải được huy động từ người khác, thế lực khác, nước khác, điều kiện khác. Họ nhờ vào nước láng giềng mạnh hơn, lãnh đạo các nước lớn có uy tín hơn. Do lãnh đạo đã sẵn nỗi sợ mất uy tín, cho nên trong nước thì phải có lực lượng thường xuyên răn đe mọi nguy cơ làm lung lay cái ‘ghế vị thế’ của mình, muốn ‘chữ uy’ của mình phải thật to, đậm. Nghĩa là phải bằng mọi cách làm cho người dân biết sợ, buộc phải sợ. Thủ cách đánh vào quyền lợi kinh tế và quyền chính trị, đánh vào những nhu cầu thiết yếu, để người dân vì quyền lợi (dù rất nhỏ) mà phải tuân thủ, phải phục tùng, miễn được yên thân. ‘Công an trị’, mượn pháp luật trị. Họ cố tình, chủ đích đưa vào pháp luật những điều luật có lợi cho lãnh đạo, có lợi cho cường quyền, nhưng bất lợi cho người dân là bởi thế.
Thứ hai: Họ chiêu tập quanh mình những cấp dưới có máu hãnh tiến và thực dụng, những kẻ ‘nhiều chất ‘tiểu nhân’, quen sống phục tùng, thích nịnh để vụ lợi, những kẻ chỉ biết tuân phục, chấp hành, một thứ ‘osin chính trị’. Đội ngũ ‘đệ tử ruột’ này cũng không hiếm những kẻ được đào tạo cơ bản, trình độ cao hơn nhiều so với ‘thủ trưởng’, nhưng do sự dựa thế, phục tùng, lấy lòng, nịnh hết cỡ miễn là có lợi cho bản thân, gia đình, họ chỉ ‘cười mỉa’ trong lòng, không dám lộ ra. Lộ ra là coi thường, chê bai lãnh đạo sẽ mất ghế, nghỉ luôn, mất ‘cần câu cơm’. Vì thế mà nhiều lãnh đạo dốt, xấu, nhưng vẫn ‘sống bằng cái đầu người khác’, diễn văn đọc lên mọi người tưởng như của chính họ, nhưng lại do nhiều cái đầu khác soạn thảo ra, hoàn chỉnh, ‘thủ trưởng’ chỉ việc sẵn đọc. ‘Thần thiêng nhờ bộ hạ/Thần thiêng cốt bộ hạ’ là thế! 'Bộ hạ' nào mà không hết lòng phụng sự, nâng uy tín cho 'thủ trưởng', lại giỏi hơn được dư luận và quần chúng tin phục hơn, thì sẽ có đủ mọi cách để trù úm, dìm ép, chuyển công tác, đào thải, dẹp bỏ, để 'tránh họa'!
Thứ ba: Dựa vào những kẻ lắm tiền, sẵn tiền, biết kiếm tiền. Nhiều ‘đại gia’ phất nhanh cũng nhờ vậy. Khi họ được lãnh đạo bảo kê thì điều kiện vơ lợi nhanh hơn, phất lên giàu sang phú quý nhanh hơn. Tất nhiên, sau các ‘phi vụ giá trị’ các ‘nhà buôn chính trị’ sẽ không quên hàm ơn lãnh đạo, nhiều khi số tiền ‘bồi dưỡng ông bà’ rất lớn, cả đời người dù có nỗ lực làm ăn cũng không thể có được. “Không tiền không quyền mất thế”. Đồng tiền ở mọi triều đại đều có sức xuyên, sức khoan nhanh, mở rộng đường cho chính trị, mua phiếu, chạy ghế, củng cố và nâng cao quyền lực.
Thứ tư: Lãnh đạo rất né tránh dư luận, nhất là những dự luận bất lợi như: Vạch ra những yếu kém; chê bai đạo đức, năng lực; phê bình, phản bác, minh chứng ra công luận những sai lầm; nhất là những dư luận vạch ra sự tham nhũng, sự câu kết giữa lãnh đạo với đại gia. Sợ dân chủ, sợ dân trí cao, sợ công luận cũng từ những ‘động cơ’ đó mà ra.
Cụ thể trong thực tế, các lãnh đạo ngu dốt, yếu kém, nhiều tội, xấu xa lại thường thích được tung hộ, khen ngợi, ai biết nịnh đều có thưởng. Nhà báo bẻ cong ngòi bút, nhà tuyên giáo, thư ký, trợ lý (chịu khó) sun xoe, bợ đỡ, khen nịnh lãnh đạo…cũng do đó mà ngày càng ‘mọc như nấm’. Các phương tiện truyền thông (báo, đài, sách) phải do lãnh đạo nuôi, chỉ đạo và quản thật chặt, hé ra thông tin nào làm mất mặt, ảnh hưởng uy tín lãnh đạo sẽ bị dẹp bỏ ngay trước khi được quyền ra công khai. Bộ luật hình sự hiện nay có điều 258 vẫn được duy trì, bởi những động cơ và chủ đích nêu trên.
Lãnh đạo yếu kém về trình độ, thoái hóa, biến chất, tham nhũng,…rất ngán Internet. Nhiều vị lãnh đạo trình độ kém đâu biết mạng mủng là gì, muốn học để biết tác nghiệp cũng khó, lại không đủ khả năng và thời gian để học. Những kênh truyền thông thời công nghệ vi mạch và siêu sóng hiện đại, khó ngăn chặn, không thể quản lý. Không quản lý được thì ngăn chặn, ngăn chặn không được thì tìm cớ bắt, giam, cho ngồi ghế 258, tù! Thật là cực đoan, ác, do lạc hậu, kém hiểu biết và bất chấp, cố 'làm lấy được', mặc cho nỗi oan khốc của người sử dụng mạng Internets. Như thế, không vi hiến, chuyên quyền độc đoán và vi phạm dân chủ thì gọi là gì? Thế mà: "Dân chủ đến thế là cùng" (!?). Họ tưởng dùng quyền lực và mượn pháp luật sẽ trừng trị, ngăn chặn được Internet. Tổng thống Obama đã nói: “Internets là sóng của trời, con người rất khó can thiệp”. Trong nền văn minh nhân loại ngày càng phát triển với siêu tốc, ngăn chặn Internet là quá lạc hậu và không hiểu biết. Truy cập Internet là quyền cơ bản của con người. Tháng 3 năm 2011, trong một tuyên bố chính thức, Liên Hợp Quốc khẳng định truy cập Internet là một trong những quyền cơ bản của con người. Theo đó, việc chặn/cắt mạng, không cho người dân truy cập Internet được coi là hành động vi phạm nhân quyền và đi ngược lại luật pháp quốc tế. Cụ thể, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về Thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do phát biểu và bày tỏ ý kiến nhận định việc cắt, chặn Internet mà không có lý do chính đáng vi phạm Điều 19, Khoản 3, Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị. Khép lại báo cáo, Báo cáo viên Đặc biệt kêu gọi “tất cả các quốc gia phải đảm bảo duy trì quyền truy cập Internet tại mọi thời điểm, bao gồm cả những thời điểm diễn ra bất ổn chính trị.”
Bùi Văn Bồng
(Blog Bùi Văn Bồng)
Ngô Nhân Dụng - Nghe Anh Ba Sàm hay nghe vâng dạ?
Đăng bởi Ha Tran on Thứ Bảy, ngày 26 tháng 3 năm 2016 | 26.3.16
Tòa án ở Hà Nội dùng điều 258 Luật Hình Sự để xử Anh Ba Sàm (Nguyễn Hữu Vinh) và cô Nguyễn Thị Minh Thúy 5 năm và 3 năm tù giam; kết tội họ đã “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.” Ðâu có quyền tự do dân chủ nào đâu mà lợi dụng? Chế độ Cộng Sản đã vi phạm chính bản Hiến Pháp của họ, đồng thời cũng tiếp tục một chính sách làm cho chính chế độ suy yếu về lâu về dài, kết quả chỉ làm đất nước xuống dốc thê thảm hơn.
Về luật pháp, anh Ðỗ Nam Trung, một tù nhân lương tâm nhận xét, “họ đang ngồi xổm trên pháp luật, họ giẫm đạp lên Hiến Pháp, họ thích bắt thì bắt, thích thả thì thả, không có áp dụng điều nào, khoản nào của bộ luật nào về việc đó cả...” Nhà tranh đấu Nguyễn Chí Tuyến, theo dõi phiên tòa từ đầu, đặt câu hỏi tại sao cô Ðoan Trang, anh Nguyễn Tuấn Anh, anh Trịnh Hữu Long là những tác giả trong 24 bài viết nêu trong bản cáo trạng, cũng bị ngăn cản không được vào dự phiên tòa?
Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters Sans Frontières - RSF) lên tiếng yêu cầu cộng đồng quốc tế làm áp lực bắt nhà cầm quyền Hà Nội xóa bỏ bản án tù các “nhà báo công dân” (journalistes citoyens) Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy. Họ nhắc nhở dư luận rằng chính quyền Việt Nam đang đứng thứ 175 trong số 180 quốc gia trong bảng xếp hạng về thi hành quyền tự do báo chí.
Những lời lên án trên đây chắc sẽ không khiến ai trong chế độ Cộng Sản động lòng. Họ đã quen ngồi trên đầu dân chúng, điều khiển một đám gia nô, không bao giờ chấp nhận cho ai bày tỏ ý kiến đối nghịch. Nhưng nếu báo cho ông Nguyễn Phú Trọng biết rằng chính ông Tập Cận Bình ở bên Tàu cũng đang được khuyến cáo hãy thay đổi chính sách đó, thì chắc Nguyễn Phú Trọng có thể sẽ bắt đầu nghĩ lại.
Chắc ông Nguyễn Phú Trọng cũng biết mới có một bài viết đăng trên trang mạng của Ủy Ban Trung Ương Kỷ Luật Thanh Tra của đảng Cộng Sản Trung Quốc (中央纪律检查委员会), do ông Vương Kỳ San (王岐山) cầm đầu; sau đó được đưa lên rất nhiều mạng khác. Vương Kỳ San là cánh tay mặt của Tập Cận Bình, hoàng đế đỏ của nước Tàu bây giờ, trong chiến dịch đánh tham nhũng từ mấy năm nay. Bài báo mang tựa là “Một nghìn người vâng dạ, không bằng một kẻ sĩ nói thẳng” (Thiên nhân chi nặc nặc bất như nhất sĩ chi ngạc ngạc 千人之諾諾,不如一士之諤諤.)
Nội dung của bài “Thiên nhân chi nặc nặc” là kể chuyện đời xưa để khuyên bảo “hoàng đế đỏ” thời nay: Hãy biết nghe những lời can gián thẳng thắn của kẻ sĩ, đừng mê ngủ chỉ nghe những lời vâng vâng, dạ dạ của đám đàn em chung quanh mình.
Câu “Thiên nhân chi nặc nặc bất như nhất sĩ chi ngạc ngạc” được bài báo dẫn ra từ lời tuyên bố của chính ông Tập Cận Bình, trong một cuộc “giảng thoại” nói với ủy ban “chuyên đề về sinh hoạt dân chủ” của thường vụ tỉnh ủy Hà Bắc. Ông nói rằng nhiều cán bộ bị truy tố cãi rằng nếu họ được ai nói cho biết những việc mình làm là có tội thì họ đã không vi phạm. Ông nói thêm: Không biết tội là chuyện nhỏ; vấn đề lớn hơn, gây nhiều sai lầm hơn là người ta không biết, “Một nghìn người vâng dạ, không bằng một kẻ sĩ nói thẳng,” Tập Cận Bình nói như vậy.
Dựa vào lời tuyên bố đó, bài báo đã triển khai, kể chuyện đời xưa, cho biết câu nói trên trích từ chuyện Thương Ưởng trong Sử Ký của Tư Mã Thiên (史記·商君列傳). Thương Ưởng lúc đã được vua Tần Hiếu Công trọng dụng, muốn dụ Triệu Lương theo mình. Triệu Lương yêu cầu phải được cho phép nói bất cứ điều gì mà không bị trừng phạt, bởi vì: “Một nghìn tấm da dê không bằng cái nách của một con cáo, một nghìn người vâng dạ, không bằng một kẻ sĩ nói thẳng." (千羊之皮,不如一狐之掖;千人之諾諾,不如一士之諤諤). Ưởng đồng ý.
Sau đó, tới tấm gương Lý Thế Dân, tức Ðường Thái Tông, dùng Ngụy Chủy (Wei Zheng), đem so sánh với chuyện Tề Hoàn Công dùng Quản Trọng. Ngụy Chủy (580-643) từng là quân sư cho Lý Kiến Thành (Li Jiancheng, 李建成), đã xúi Kiến Thành giết Thế Dân. Sau ông ta đổi chủ, khi Thế Dân giết Kiến Thành. Trong 13 năm làm tể tướng, Ngụy Chủy luôn luôn can gián vua, có khi ép Thái Tông phải bãi bỏ lệnh bắt lính tất cả những con trai trên 18 tuổi mà không phải con đầu lòng. Ngụy Chủy can thiệp cả vào việc gia đình của ông chủ, như vấn đề của hồi môn cho con gái. Về sau ông ta còn chỉ trích vua hồi xưa vui vẻ nghe lời can gián nhưng càng về sau tai nghe mặt càng không vui. Cứ thế, nhiều lần Thái Tông giận đỏ mặt. Có lần ông vua vào hậu cung rồi vẫn còn lầu bầu mắng chửi Ngụy Chủy. Hoàng Hậu Trưởng Tôn (Zhangsun, 長孫皇后) bèn mặc triều phục quỳ xuống, chúc mừng Thái Tông có được trung thần dám nói thẳng, điều đó chứng tỏ ông là một minh quân. Bấy giờ ông ta mới nguôi. Sau khi Ngụy Chủy chết, Ðường Thái Tông cử binh đánh Hàn Quốc và thua trận, ông than rằng “Nếu Ngụy Chủy còn sống chắc thế nào cũng đã can gián ta!”
Bài báo ca ngợi Ðường Thái Tông như một ông vua thành công bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc, ngụ ý khuyên răn ông hoàng đế đỏ Tập Cận Bình! Sau đó, còn nêu “chủ trương” của Khổng Tử “Ði ba người thế nào cũng có một người đáng dậy mình” (Tam nhân hành tất hữu ngã sư, 三人行必有我师); nêu tấm gương Khổng Tử tôn kính cả những ẩn sĩ như Tiếp Dư, người cuồng nước Sở (楚狂接舆), và ông già ẩn sĩ Hà Ðịch (荷蓧老人). Ðến ông cụ Khổng cũng biết kính trọng kẻ sĩ không theo mình, sao không bắt chước?
Nói chung, bài báo “Thiên nhân chi nặc nặc” có thể coi là một lời khuyên bảo, hay là “can gián” gửi tới Tập Cận Bình. Người ta không biết Vương Kỳ Sanh có chủ mưu đưa bài báo này lên mạng của ủy ban chống tham nhũng của ông ta không, nhưng bài báo đã được loan truyền khắp trên các mạng ở Trung Quốc.
Tuy nhiên, tất cả những câu chuyện cổ nêu trên đều diễn ra trong thời quân chủ chuyên chế. Những “trung thần” can đảm can gián vua đều nhắm một mục đích là củng cố uy quyền của ông vua, chứ không phải vì ích lợi cho dân. Nghĩa là Vương Kỳ Sanh chỉ muốn giúp Tập Cận Bình trở thành một “minh quân đỏ” trong chế độ Cộng Sản!
Nhưng người đọc, ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, phải tự hỏi: Tại sao người cầm đầu guồng máy cai trị không biết lắng nghe tất cả các “kẻ sĩ nói thẳng” trong thiên hạ, mà lại chỉ giới hạn trong đám cận thần của mình? Ai cũng biết, dưới chế độ độc tài, chung quanh các “hoàng đế” sẽ chỉ còn những bọn vâng vâng, dạ dạ! Chỉ những đảng viên biết luồn cúi mới có cơ hội thăng quan tiến chức, các kẻ sĩ đâu còn ai muốn chui vào ngồi trong đám gia nô đó? Những xung đột nội bộ của các đảng Cộng Sản đều vì phe cánh tranh giành địa vị, chứ không phải vì những “gián quan” can đảm bác bỏ ý kiến, chính sách của các hoàng đế đỏ!
Thời quân chủ, tất cả phục vụ cho ông vua và gia đình ông ta. Thời nay, trên lý thuyết chủ quyền thuộc về toàn dân, những ý kiến ích lợi cho dân chúng, dù của những người như Tiếp Dư, Hà Ðịch, cũng phải được tôn trọng nếu đem lại lợi ích chung! Trong nước Việt Nam và Trung Quốc, biết bao nhiêu kẻ sĩ đang bày tỏ ý kiến trái ngược với đường lối đảng, tại sao không để cho họ được lên tiếng?
Ðọc xong và biết nội dung bài “Thiên nhân chi nặc nặc” ai cũng sẽ phải nhìn ra: Những người như Anh Ba Sàm, Nguyễn Thị Minh Thúy, Nguyễn Quang A, Ðoan Trang, Nguyễn Tuấn Anh, Trịnh Hữu Long, vân vân, đều là những “kẻ sĩ” trong thời đại này. Họ lên tiếng đòi tự do dân chủ vì đó là khát vọng của người Việt Nam cũng như của cả nhân loại. Tại sao không lắng nghe họ nói mà chỉ biết nghe nịnh hót, như đám gia nô trong cái quốc hội bù nhìn? Nước Việt Nam cần thêm rất nhiều lời thẳng thắn của Anh Ba Sàm hay chỉ biết nghe ngàn lời vâng vâng, dạ dạ?
Tiếp tục ngăn cấm những người như Anh Ba Sàm lên tiếng, thì chỉ khiến cho dân càng khinh, càng ghét chế độ độc tài. Mà về lâu về dài, chính sách đó sẽ khiến đất nước xuống dốc không dám ngẩng mặt nhìn các nước Á Ðông chung quanh.
Dân Việt Nam đã ý thức quyền tự do sống làm người của họ. Cho nên dù chính quyền Cộng Sản có đàn áp những Anh Ba Sàm, Nguyễn Thị Minh Thúy bằng những bản án phi lý, dân Việt không còn sợ nữa. Các nhà tranh đấu dân chủ sẽ còn tiếp tục, dù Anh Ba Sàm đã bị tù. Có thể kết luận bằng nhận xét của Linh Mục Lê Ngọc Thanh, rằng các bản án tù “không còn tác dụng như nhà cầm quyền mong muốn là ‘răn đe’ dân chúng nữa.” Do đó, linh mục khuyến cáo, chỉ còn một con đường là, “hãy thay đổi cơ chế xã hội,” chấm dứt độc tài chuyên chế!
Ngô Nhân Dụng
(Người Việt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét