BẢN IN
Mặc dù, 6 tháng đầu năm 2016, kinh tế Việt Nam có nhiều dấu hiệu khởi sắc nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc do nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế còn gặp khó khăn, thách thức.
GDP có khả năng tăng thấp hơn mức dự báo, điều này có thể ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong năm 2016.
Để tìm hiểu rõ hơn, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm xung quanh vấn đề này.
- Xin ông đánh giá về tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm 2016 và cho biết những ngành, lĩnh vực nào có dấu hiệu khởi sắc giúp cho kinh tế Việt Nam tăng trưởng trong những tháng qua?
Tổng cục trưởng Nguyễn Bích Lâm: Trong 6 tháng qua, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng, khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển, lãi suất cho vay có xu hướng giảm; tỷ giá, thị trường ngoại tệ ổn định; thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tiếp tục đạt nhiều kết quả tích cực…
Nổi bật, lĩnh vực kinh doanh bất động sản tiếp tục tăng trưởng, tuy nhiên mức tăng vẫn rất thấp.
Tiếp đến là đầu tư trực tiếp nước ngoài 6 tháng đầu năm 2016 có nhiều thuận lợi, nhiều chính sách được điều chỉnh để nâng cao hiệu quả thu hút, quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã giúp duy trì và phát triển dòng vốn FDI.
Số lượng dự án mới được cấp phép 6 tháng đầu năm 2016 đạt trên 1.000 dự án tăng lên đáng kể so với cùng kỳ 2015.
Tôi cho rằng số dự án nước ngoài tăng lên là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, cũng như tăng thu hút vốn đầu tư cho phát triển.
Đặc biệt, thời gian qua, xu hướng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài diễn ra rất tích cực.
Bên cạnh những đối tác đầu tư truyền thống vào Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc)…thì nhiều nhà đầu tư từ các quốc gia phát triển đặc biệt là khu vực châu Âu cũng đang quan tâm đến môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Chính phủ đang nỗ lực trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, giữ ổn định tình hình chính trị, kinh tế-xã hội, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư và mở rộng sản xuất.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện 6 tháng đầu năm 2016 theo giá hiện hành ước đạt 618.200 tỷ đồng, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 2015 và bằng 32,9% GDP bao gồm: vốn khu vực Nhà nước ước đạt 229.300 tỷ đồng, tăng 6,5% so với cùng kỳ; vốn khu vực ngoài nhà nước ước đạt 230.700 tỷ đồng, tăng 14,7% so với cùng kỳ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 158.200 tỷ đồng, tăng hơn 15% so với cùng kỳ.
Bên cạnh đó, CPI 6 tháng đầu năm nay có tốc độ tăng tương đối thấp; bình quân mỗi tháng CPI chỉ tăng 0,39%; bình quân 6 tháng CPI tăng 1,72% so với cùng kỳ năm 2015.
Lạm phát cơ bản (CPI) sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống; năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục) tháng 6/2016 tăng 0,13% so với tháng trước, tăng 1,88% so với cùng kỳ; 6 tháng đầu năm 2016 so cùng kỳ năm 2015 tăng 1,8%.
Bình quân 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước, lạm phát chung và lạm phát cơ bản gần tiệm cận với nhau, điều này thể hiện, chính sách tiền tệ vẫn đang được điều hành ổn định, giúp ổn định kinh tế vĩ mô.
- Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế-xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức tác động tới tăng trưởng. Ông nhận định về tình hình này như thế nào?
Tổng cục trưởng Nguyễn Bích Lâm: Theo tôi, tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm còn nhiều khó khăn, thách thức tác động đến tăng trưởng; đặc biệt, nhiều ngành có tốc độ tăng trưởng ở mức thấp như: nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp khai thác; vận tải; dịch vụ lưu trú và ăn uống; kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn…
Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi nhưng chậm; mức tăng trưởng ngành công nghiệp thấp hơn cùng kỳ năm trước do ngành khai khoáng tăng trưởng âm và công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp hơn cùng kỳ năm trước.
Công nghiệp khai thác giảm do sản lượng khai thác dầu thô giảm hơn 500.000 tấn so với 6 tháng năm 2015.
Tốc độ phục hồi kinh tế đang có xu hướng chậm lại không chỉ trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, mà cả trong khu vực công nghiệp chế biến - là ngành được kỳ vọng sẽ phục hồi nhanh nhờ tác động của cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới; ngành khai khoáng tăng trưởng âm do giá dầu giảm xuống ở mức thấp. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đạt thấp hơn mục tiêu đề ra và thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm trước.
- Với những thách thức trên, tăng trưởng kinh tế năm 2016 liệu có đạt mục tiêu 6,7% như Nghị quyết của Quốc hội đặt ra? Theo ông cần phải có những giải pháp gì để hoàn thành nhiệm vụ này?
Tổng cục trưởng Nguyễn Bích Lâm: Trong 6 tháng đầu năm, GDP có khả năng tăng thấp hơn mức dự báo, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2016.
Để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương cần tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư; tuyệt đối không đặt ra các rào cản, điều kiện đầu tư kinh doanh bất hợp lý, gây cản trở hoạt động của doanh nghiệp.
Theo tôi, đặc biệt cần tập trung thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020 theo đúng Quyết định 339/QĐ-TTg ngày 19 tháng 02 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Các cấp, các ngành tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc các giải pháp, chính sách hỗ trợ các vùng bị thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường biển đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nghiên cứu mở rộng diện tích gieo trồng vụ Hè Thu để bù lại sản lượng giảm trong vụ Đông Xuân; đồng thời, nghiên cứu hướng dẫn các địa phương thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với thay đổi thời tiết trong thời gian tới.
Đối với sản xuất công nghiệp, chúng ta cần phân tích, đánh giá, làm rõ nguyên nhân tốc độ tăng trưởng thấp trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Từ đó, đề xuất các giải pháp khắc phục, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng sản xuất công nghiệp, chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến từ nguồn nguyên liệu nông, lâm, thủy sản.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành Trung ương và địa phương cùng với việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các nguồn vốn đầu tư công kế hoạch năm 2016, vốn FDI, ODA để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đồng thời, cần nhanh chóng giải quyết vấn đề nợ xấu xuống dưới ngưỡng an toàn, tạo điều kiện để ngân hàng giảm lãi suất cho vay đối với các ngành, hoạt động ưu tiên.
- Với những kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm, xin ông đánh giá về triển vọng kinh tế năm 2016? Kết quả này có vai trò như thế nào trong kế hoạch thực hiện kinh tế-xã hội giai đoạn 2016-2020?
Tổng cục trưởng Nguyễn Bích Lâm: Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2016 là 6,7%, để đạt được mục tiêu trên 6 tháng cuối năm tăng trưởng kinh tế (GDP) cần đạt ở mức cao. Đây là một thách thức trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta trong năm 2016 còn nhiều khó khăn.
Do vậy, nếu Chính phủ và các địa phương không thực hiện các giải pháp tích cực, mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2016 là rất khó đạt được. Điều này sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch thực hiện kinh tế-xã hội giai đoạn 2016-2020, tuy nhiên ảnh hưởng này sẽ không lớn.
Theo tôi, giai đoạn 2017-2020, nếu các khó khăn được tháo gỡ, các giải pháp của Chính phủ được các cấp, các ngành thực hiện tốt, các hiệp định thương mại tự do có hiệu lực, kinh tế thế giới phục hồi sẽ tác động tốt đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Xin trân trọng cám ơn ông!
Bộ trưởng Tài chính trăn trở trong thu-chi "ngân khố" quốc gia
Là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020, sẽ có những thuận lợi và thách thức lớn đặt ra cho toàn ngành tài chính. Để làm rõ hơn về mục tiêu cũng như các giải pháp mà ngành tài chính đề ra nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng về những vấn đề liên quan.
-Xin Bộ trưởng cho biết ngành tài chính đã đặt những mục tiêu trọng tâm gì cho giai đoạn mới?
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Trong giai đoạn 2016-2020, dự báo tình hình kinh tế có xu hướng phục hồi nhưng vẫn còn nhiều rủi ro do một số nước lớn thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy nhanh qua việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTAs) khu vực và liên kết khu vực. Đồng thời, biến động nhanh về dòng vốn, luân chuyển thương mại, diễn biến phức tạp của giá cả hàng hóa thế giới (đặc biệt là giá dầu thô), biến đổi khí hậu... đều tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam và tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối ngân sách nhà nước.
Vì vậy, mục tiêu của ngành tài chính trong những năm tới là tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện thể chế tài chính; huy động, phân phối, quản lý, sử dụng các nguồn lực hiệu quả, công bằng theo các yêu cầu và định hướng phát triển kinh tế - xã hội; từng bước cơ cấu lại ngân sách, tiếp tục ưu tiên đầu tư hợp lý cho con người và tăng cường an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh; đẩy mạnh cải cách hành chính và tăng cường quản lý, giám sát tài chính quốc gia, đảm bảo an toàn nợ công.
-Vậy ngành tài chính cần có những giải pháp gì để hoàn thành tốt trọng trách này, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Để đạt được các mục tiêu nêu trên, ngành tài chính sẽ tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chủ động, chặt chẽ, tiết kiệm; thúc đẩy minh bạch tài khóa; đảm bảo an ninh, an toàn tài chính quốc gia, giảm dần bội chi ngân sách nhà nước.
Thực hiện hiệu quả, đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển; tiếp tục cải cách, đổi mới hệ thống thuế, phí, lệ phí; tăng cường hiệu quả huy động nguồn lực tài chính từ bên ngoài; tiếp tục mở cửa thị trường tài chính phù hợp với cam kết quốc tế, chủ động tham gia hội nhập tài chính quốc tế; phân bổ hiệu quả, quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính công gắn với quá trình tái cơ cấu kinh tế.
Đồng thời, đổi mới cơ chế cấp phát ngân sách đối với các đơn vị sự nghiệp công. Trong đó tăng cường phân cấp và tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ và trong sử dụng nguồn lực gắn với nâng cao trách nhiệm giải trình về kết quả của các đơn vị cung ứng dịch vụ công.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước gắn với thực hiện kết quả tái cấu trúc doanh nghiệp. Tăng năng lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra chuyên ngành tài chính.
-Dự báo những năm tới, giá dầu thô có thể vẫn biến động bất thường và nhiều hiệp định thương mại tự do chính thức có hiệu lực... Theo Bộ trưởng, để đảm bảo “túi tiền” của quốc gia không bị ảnh hưởng nhiều, ngành tài chính cần thực hiện những bước đi cụ thể như thế nào?
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Việc giá dầu giảm, tạo điều kiện giảm chi phí đầu vào, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhưng cũng có tác động làm giảm các khoản thu liên quan đến giá dầu. Tuy nhiên, do tỷ trọng thu trực tiếp và gián tiếp liên quan đến dầu thô không lớn (khoảng 10% tổng thu ngân sách nhà nước) nên số giảm thu chỉ ở một mức độ nhất định và có thể bù đắp từ tăng thu nội địa cũng như xuất khẩu.
Vì vậy, một số giải pháp trọng tâm, mang tính tiên quyết đặt ra cho ngành trong thời gian tới là theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình kinh tế và giá dầu thô; phân tích đánh giá tác động và xây dựng các phương án, giải pháp đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước; tập trung quản lý chặt chẽ nguồn thu, phấn đấu tăng thu từ nội địa và thu từ hoạt động xuất khẩu để bù đắp tối đa cho số giảm thu do tác động của dầu thô và tác động của các hiệp định thương mại tự do.
Bên cạnh đó, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương thực hiện chính sách tài khóa chủ động, chặt chẽ; đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, hoàn thiện thể chế, cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho sản xuất - kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước; quản lý giá chặt chẽ, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô…
-Là người đứng đầu cơ quan thực hiện nhiệm vụ “gác cổng ngân khố quốc gia,” vấn đề nào khiến Bộ trưởng cảm thấy áp lực và cần phải thay đổi nhiều nhất?
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, ngành tài chính cũng đang phải đối mặt với áp lực lớn như: Dư địa thu ngân sách có xu hướng giảm dần, cơ cấu chi ngân sách chưa hợp lý, bội chi ngân sách nhà nước còn cao, nợ công mặc dù vẫn nằm trong giới hạn an toàn nhưng đang có xu hướng tăng nhanh và tiệm cận ngưỡng trần cho phép; tiến độ sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm; tác động của quá trình hội nhập quốc tế, biến động bất thường của giá dầu thô thế giới....Những vấn đề này có các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Các nguyên nhân khách quan thường vượt khỏi sự kiểm soát của chúng ta, buộc chúng ta phải có giải pháp đối phó thích hợp, thí dụ như giá dầu thô thế giới giảm.
Nhưng các nguyên nhân chủ quan mới là vấn đề cần phải tập trung nghiên cứu. Vấn đề tôi thấy trăn trở nhất và muốn thay đổi mạnh mẽ trong thời gian tới đó là tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng trưởng lớn mạnh và yêu cầu đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước; giữa khả năng cân đối nguồn lực với yêu cầu chi ngày càng tăng cao của tất cả các ngành, lĩnh vực, cấp chính quyền; giữa yêu cầu tiết kiệm cắt giảm chi tiêu, hạ bội chi ngân sách để đảm bảo an toàn nợ công với yêu cầu tăng chi đầu tư, chi trả nợ, tiền lương và các chính sách an sinh xã hội,... hay trong vấn đề đổi mới khu vực sự nghiệp công. Đó là quan điểm tăng quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công gắn với lộ trình điều chỉnh giá, phí để đảm bảo thu bù chi. Nhà nước chuyển từ bao cấp toàn bộ sang chỉ tập trung cho một số đối tượng chế độ chính sách và người nghèo....
Dĩ nhiên, chúng tôi hiểu rằng những vấn đề này không thể chỉ riêng ngành tài chính có thể giải quyết được. Nó đòi hỏi sự đồng thuận và vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Thực tiễn cho thấy, trước những khó khăn thách thức dù to lớn đến chừng nào nếu chúng ta đoàn kết cùng nhau tháo gỡ thì nhất định sẽ vượt qua được./.
Bộ Tài chính chốt nợ của Chính phủ ở ngưỡng hơn 1,8 triệu tỷ đồng
Dư nợ Chính phủ trong năm 2014 theo tính toán ở mức hơn 1,8 triệu tỷ đồng. Cũng trong năm này, ngân sách đã phải dành 260.800 tỷ đồng để trả nợ.
Đây là những con số trong "Bản tin nợ công số 4" vừa được Bộ Tài chính công bố.
Nợ của Chính phủ theo giải thích trong bản tin là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, ngoài nước được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền.
Con số này theo báo cáo mới công bố năm 2014 ở mức trên 1,8 triệu tỷ đồng. Trong năm ngoái, dự nợ của Chính phủ là hơn 1,5 triệu tỷ đồng. Nếu so với năm 2010 khi dư nợ ở mức hơn 889.000 tỷ đồng, dư nợ Chính phủ trong năm 2014 đã tăng hơn 103%.
Dự nợ của Chính phủ năm 2014 theo thống kê tương đương 46,4% GDP. Trong cơ cấu nợ, nợ trong nước có tỷ lệ lớn hơn nợ nước ngoài. Cụ thể, nợ trong nước là hơn 1 triệu tỷ đồng và trên 800.000 tỷ đồng còn lại là nợ nước ngoài.
Nhìn lại từ năm 2010, xu hướng này chỉ xuất hiện trong 2 năm là năm 2013 và năm 2014. Trước đó, từ năm 2010, nợ nước ngoài luôn chiếm phần lớn trong cơ cấu nợ. Ví dụ, trong năm 2010, trong tổng số 889.000 tỷ đồng nợ thì hơn 530.000 tỷ đồng là nợ nước ngoài và chỉ hơn 359.000 tỷ đồng là nợ trong nước. Tương tự, năm 2011 và năm 2012, nợ nước ngoài cũng tăng dần khi lần lượt là hơn 666.000 tỷ đồng và trên 727.000 tỷ đồng.
Theo tính toán, dư nợ Chính phủ so với thu ngân sách của năm 2014 bằng 211,5%. Tỷ lệ này tăng dần trong 5 năm liên tiếp. Từ ngưỡng 157,9% trong năm 2010, dư nợ Chính phủ so với thu ngân sách lên mức 162%, 172%, 184% và 211,5% những năm tiếp theo.
Tổng số tiền trả nợ trong năm 2014 theo báo cáo là hơn 260.000 tỷ đồng. Con số này tăng tới gần 199% so với năm 2010. Trong những năm trước, tổng trả nợ trong kỳ chỉ ở mức hơn 87.000 tỷ đồng năm 2010, rồi sau đó lên gần 111.000 tỷ đồng năm 2011 và trên 154.000 tỷ đồng một năm sau đó./.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tới ngày 31/12/2015, ước tính nợ Chính phủ ở mức 50,3% GDP. Trong khi ấy, giới hạn trần nợ cho phép giai đoạn năm 2011-2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua trong đó có nợ Chính phủ không quá 50% GDP. Như vậy, so với mức trần, nợ Chính phủ trong năm 2015 đã vượt trần 0,3%.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét