02/05/2016
Nguyễn Quang Dy
2-5-2016
Sau Đại hội Đảng khóa XII và Quốc hội khóa XIV (còn đang tranh
cãi) ban lãnh đạo mới của Việt Nam đang đứng trước những thách thức quá lớn so
với năng lực thực sự của mình. Họ phải đối phó không những với ngân sách thâm
hụt, kinh tế tụt hậu, văn hóa-xã hội suy thoái, mà còn với cải cách thể chế,
cải thiện nhân quyền, điều chỉnh quan hệ với Trung-Mỹ trước vấn nạn Biển Đông.
Tổng thống Obama sang thăm cuối tháng này cũng là một thử thách lớn. Chưa hết,
thảm họa môi trường do hạn hán và ngập mặn tại đồng bằng sông Mekong chưa qua,
thì thảm họa cá chết do nhiễm độc môi trường biển tại Miền Trung đã ập tới.
Báo động: Mayday!
Cách đây đúng hai năm, Trung Quốc đã đưa dàn khoan HD981 vào
Biển Đông, gây ra cơn bão phản kháng và bạo động, đốt cháy nhiều dự án của Trung
Quốc tại Bình Dương và Vũng Áng. Hôm nay, người dân Việt Nam lại biểu tình
(nhưng ôn hòa) để bảo vệ môi trường đang bị hủy hoại ở Miền Trung, nghi là do
dự án Formosa. Dù đúng hay không, những tai họa đang diễn ra ở Việt Nam hiện
nay đều liên quan đến nhau, và có cùng mẫu số chung gồm 2 yếu tố cốt lõi là
“Thể chế “ và “Trung Quốc”. Sự kiện tôm cá chết hàng loạt tại Vũng Áng (Hà
Tĩnh) lan ra các tỉnh Miền Trung (theo hải lưu) không phải chỉ hủy hoại môi
trường/môi sinh, đe dọa cuộc sống hàng triệu ngưòi dân làm ngư nghiệp và du
lịch, mà còn thách thức năng lực và đánh giá thái độ ứng xử của ban lãnh đạo
mới vẫn lúng túng và chậm chễ trước đòi hỏi cấp bách là “cải cách thể chế” và
“thoát Trung”. Nếu không tháo gỡ được hai nút thắt cổ chai đó (là gốc) thì không
thể đối phó được với các tai họa thay nhau ập tới (là ngọn).
Việc bộ trưởng Trần Hồng Hà xin lỗi dân và bắt Formosa đưa đường
ống xả thải nổi lên cho dễ kiểm soát chỉ là “chữa cháy” để đối phó. Sau gần một
tháng bị động và lúng túng, đây là một quyết định “muộn còn hơn không” (nhưng
chưa chắc khả thi). Đã đến lúc cần báo động đỏ (red alert) như tình trạng khẩn
cấp (emergency) để kêu gọi cộng đồng quốc tế cứu trợ nhân đạo và hỗ trợ kỹ
thuật để đánh giá độc lập nguyên nhân và giải pháp nhằm đối phó hiệu quả hơn
với thảm họa môi trường này, có nguy cơ lan xuống phía nam (đến tân Phú Quốc
hay nước khác). Đồng thời, cần rút bài học kinh nghiệm để xem lại những dự án
lớn khác cũng có rủi ro về môi trường. Sau vấn nạn cá chết (từ Vũng Áng), liệu
có vấn nạn bùn đỏ (red mud) do bauxite Nhân Cơ, hay vấn nạn mây độc (toxic
cloud) do nhiệt điện Vĩnh Tân 2)?
Nóí cách khác, những câu hỏi cơ bản và cấp bách như có chất độc
gì, từ đâu thải ra, và ai chịu trách nhiệm, cần phải trả lời gấp để có biện
pháp xử lý, nhưng đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Chúng ta cần quan tâm
đến cả những vấn đề cốt lõi khác, như rủi ro tiềm ẩn về môi trường và an sinh
xã hội; rủi ro tiềm ẩn về biểu tình hay bạo động do người dân tuyệt vọng; rủi
ro tiềm ẩn về lợi ích kinh tế; rủi ro tiềm ẩn về an ninh quốc phòng và chủ
quyền quốc gia. Đây là một dịp để xem ban lãnh đạo mới xử lý khủng hoảng thế
nào (crisis management), không chỉ thảm họa môi trường mấy tỉnh Miền Trung (lan
ra từ Vũng Áng), mà còn rủi ro tiềm ẩn từ các dự án lớn khác như bauxite Nhân
Cơ & Tân Rai (Đắc Nông); nhiệt điện Vĩnh Tân 1/2/3 (Bình Thuận), và điện
hạt nhân Ninh Thuân (hay đâu đó), còn đang tranh cãi.
Người ta hay nói, “không thể thay đổi được quá khứ, nhưng chúng
ta có thể sắp xếp lại tương lai” (Dalai Lama). Nhưng tương lai Việt Nam lại phụ
thuộc vào thái độ ứng xử của các bên liên quan (stakeholders) như chính phủ,
doanh nghiệp, giới khoa học, giới báo chí, và dân… không chỉ đối với những gì
đang diễn ra (là phần nổi) mà còn đối với nguy cơ tiểm ẩn (là phần chìm). Ngoài
thảm họa môi trường (mà nhiều chuyên gia đã nói tới) hãy thử xem lại “thảm họa
truyền thông” và những “bất cập” giữa các bên liên quan, cđang làm cho cuộc
khủng hoảng môi trường này (do con người tạo ra), càng thêm trầm trọng (đến mức
báo động).
Thảm họa truyền thông: Bát nháo (chaos)
Để xử lý khủng hoảng, đối phó với thảm họa môi trường, truyền
thông rất quan trọng. Thông thường, phải phản ứng nhanh và khéo léo, phối hợp
và chỉ đạo nhất quán để làm chủ tình thế, khoanh vùng làm rõ nguyên nhân để tập
trung xử lý vấn đề chính, nhằm làm giảm thiểu rủi ro và sức ép. Nhưng dường như
người ta đang làm ngược lại: thay vì phải nhanh thì rất chậm, thay vì khéo léo
thì rất vụng về, thay vì làm rõ thì làm rối tung lên, thay vì làm giảm thiểu
rủi ro và sức ép thì lại đổ thêm dầu vào lửa làm tăng sức ép và rủi ro. Tóm lại
là thiếu chuyên nghiệp, không làm chủ được tình thế, không phối hợp và chỉ đạo
nhất quán, lúng túng như “gà mắc tóc”, nên “ông nói gà bà nói vịt”.
Đã gần một tháng kể từ khi người dân phát hiện cá chết với quy
mô lớn (tổng cộng khoảng 80 tấn, trong đó Hà Tĩnh khoảng 10-15 tấn, Quảng Bình
khoảng 25 tấn, Quảng Trị khoảng 30 tấn, Thừa Thiên-Huế khoảng 6000 con) kéo dài
hơn 250km dọc bờ biển 4 tỉnh Miền Trung, các quan chức địa phương (và trung
ương) phản ứng rất chậm, lúng túng và bị động, tránh né và im lặng (như không
có chuyện gì xảy ra). Dù với động cơ hay lý do gì, thì đó là thái độ ứng xử
không bình thường, không thể chấp nhận được (khi có thảm họa). Không cần phải
là đảng viên gương mẫu, mà chỉ cần xét trách nhiệm công dân được ăn lương và
bổng lộc nên phải có nghĩa vụ làm việc cho đất nước (thời nào hay xã hội nào
cũng vậy).
Đặc biệt, các quan chức tỉnh Hà Tĩnh (nơi có khu kinh tế Vũng
Áng) đã lẩn tránh, viện cớ bận “kiện toàn nhân sự” và đón tiếp TBT. Khi các nhà
báo gọi điện hỏi về hiện tượng cá chết, bí thư tỉnh ủy Lê Đình Sơn và chủ tịch
UBND tỉnh Đặng Quốc Khánh đều từ chối trả lời, không hiểu do “quá bận” hay vì
câu chuyện cá chết “nhạy cảm”! Theo báo Dân Trí, lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh đã “tàng
hình” một cách khó hiểu trước thảm họa môi trường đang đe dọa cuộc sống người
dân đang kêu cứu vô vọng, “họ bỏ mặc chúng tôi!”. Ngày
22/4/2016, TBT Nguyễn Phú Trọng và phái đoàn đến thăm Hà Tĩnh và dự án Formosa
(tại Vũng Áng), nhưng cũng không hề thấy đề cập gì đến tai họa môi trường đang
làm cá chết. Kể cũng lạ thật!
Theo VietnamNet (ngày 21/4/16), trước sức ép của dư luận, ông
Phạm Khánh Ly (Vụ phó Vụ Nuôi trồng thủy sản, Bộ NN&PTNT) giải thích, “Đoàn
công tác không vào kiểm tra tại KCN Vũng Áng được vì đây là KCN có yếu tố
nước ngoài, đoàn không có thẩm quyền”. Phải chăng đấy là lý do chính
đáng để lý giải sự bất lực. Nếu đúng là có “luật” như vậy thật (phải có lệnh
của thủ tướng mới được vào kiểm tra) thì dự án Formosa quả là một “tô giới”
(nhượng địa). Thời trước, những tô giới nước ngoài ở Trung Quốc có biển cấm
“chó và người Trung Quốc không được vào”. Chẳng lẽ điều đó đang được lặp lại ở
Việt Nam? Nếu không đúng thế, thì các quan chức Việt Nam không hiểu gì về “chủ
quyền quốc gia” (do dốt) hoặc không làm đúng quyền hạn/nghĩa vụ của mình (do
thiếu trách nhiệm).
Cá bắt đầu chết trắng biển từ ngày 6/4, nhưng mãi tới 20/4, ông
Võ Tuấn Nhân (thứ trưởng Bộ TN&MT) mới yêu cầu chính quyền các địa phương
“phải tổ chức tuyên truyền rộng rãi để người dân không sử dụng cá chết làm thực
phẩm và thức ăn chăn nuôi.” Quá chậm! vì một số người dân đã bị ngộ độc phải
nhập viện. Một số gian thương đã vận chuyển cá đi tiêu thụ tại các địa phương
khác. Trong khi chưa có kết luận về mức độ nhiễm độc môi trường biển, ông Đặng
Ngọc Sơn (Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh) vẫn hồn nhiên, “Những loại hải sản
vẫn đang sống thì người dân có thể ăn được, và yên tâm tắm biển”. Chẳng lẽ ông Sơn không biết mấy thợ
lặn của dự án Sơn Dương đã phải vào viện? (và một người đã chết!).
Ông Vũ Văn Tám (Thứ Trưởng Bộ NN&PTNT) và các quan chức khác
xác nhận nguyên nhân cá chết nhiều như vậy là do nhiễm độc, với độc tố cực
mạnh. Nhưng các cơ quan chức năng vẫn lúng túng chưa trả lời được 2 câu hỏi cơ
bản (và đơn giản) là độc tố gì, và từ đâu ra? Trong khi đó, một lãnh đạo sở
NN&PTNT Hà Tĩnh đã nói tại cuộc họp với lãnh đạo Bộ (20/4), “Chất độc đó
đến Bộ cũng khó tìm ra?’’ Đây là thái độ thách thức, hay sự thật? Trong
khi đó, các nhà khoa học nói rằng các phòng thí nghiệm bình thường có thể tìm
ra. Có lẽ vấn đề không phải là do độc tố dưới biển quá bí hiểm, mà do độc tố tư
tưởng trong đầu.
Trong cuộc họp liên bộ và liên tỉnh (ngày 24/4), phó thủ tướng
Trịnh Đình Dũng chỉ đạo, “phải xác định sớm nguyên nhân. Trách nhiệm này thuộc
Bộ TN&MT phối hợp với Bộ NN& PTNT. Nếu chưa đủ khả năng thì thuê chuyên
gia nước ngoài để có kết luận chính xác”. Ông Dũng kết luận, “Đây là lần đầu
tiên xảy ra hiện tượng cá chết bất thường trên diện rộng. Chính vì thế, việc
tập trung nghiên cứu nguyên nhân, khắc phục của các cơ quan chuyên môn rất bị
động, lúng túng”. Có lẽ vị tân phó thủ tướng thật thà này cũng bị động, lúng
túng.
Ông Hoàng Dương Tùng (Phó Tổng cục trưởng TC Môi trường, Bộ
TN&MT) cho biết, “tính đến thời điểm hiện tại, Formosa chưa được cấp phép
xả thải xuống biển. Hiện các cơ quan chức năng của Bộ vẫn đang tiến hành các
bước thủ tục kiểm tra, thẩm định cần thiết. Nếu hệ thống xử lý nước thải, xả
thải này đạt tiêu chuẩn thì mới được cấp phép hoạt động”. Nhưng trong cuộc họp
tại Hà Tĩnh (chiều 23/4), ông Võ Tuấn Nhân (Thứ trưởng Bộ TN&MT) lại khẳng
định, “đường ống dẫn nước thải ngầm đổ ra biển của Formosa đã được Bộ TN&MT
cấp phép theo đúng quy định pháp luật”.Ông
Dương còn cho biết lưu lượng xả thải mỗi ngày là 12.000m3. Theo báo Tuổi Trẻ
(30/4) ông Trần Hồng Hà (bộ trưởng bộ TN&MT) lại khẳng định ngược lại,
“Việt Nam không cho phép Formosa thiết lập hệ thống xả thải đặt ngầm dưới biển…
phải buộc Formosa đưa đường ống ngầm này lên để thuận tiện cho việc theo dói
giám sát”. Không biết điều gì đang diễn ra, chỉ thấy “trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược”. Bó tay!
Lý giải về phản ứng lúng túng và chậm trễ nói trên, tiến sĩ
Nguyễn Chu Hồi (chủ tịch Hội Thiên nhiên và Môi trường) nói, “Khi cá chết hàng
loạt, ban đầu người ta cứ nghĩ đó là một việc không quá nghiêm trọng, cử vài
anh xuống kiểm tra, về làm cái báo cáo tình hình, nên không phát hiện, không
phỏng vấn sâu người dân. Khi sự việc nóng lên, cách vào cuộc lại có vấn đề.
Phản ứng của các cơ quan khoa học lại theo kiểu giải quyết tình thế”.
Còn về nguyên nhân cá chết, ông Hồi nói, “Các ý kiến chuyên gia
tập trung nghi vấn vào hệ thống xả thải khổng lồ của Formosa là có cơ sở. Lãnh
đạo Bộ TN&MT đã vội vã cho rằng việc làm đó nằm trong thiết kế và được bộ
này cấp phép, nhưng không mảy may đề cập đến nó có đáng nghi ngờ hay không, các
cơ quan quản lý nhà nước có thiếu quy trình giám sát mức độ tuân thủ cam kết
của Formosa hay không… Ngay từ đầu tôi đã định hướng xuất phát nguồn gây ô
nhiễm nằm ở phía bắc Hà Tĩnh và cụ thể hơn là Vũng Áng…”
Trong khi cần thông tin kịp thời để hạn chế rủi ro và giải tỏa
bức xúc của dư luận, thì các quan chức vẫn tìm cách bưng bít thông tin (như một
thói quen cũ). Trong cuộc họp liên bộ và liên tỉnh tại Hà Tĩnh (23/4) báo chí
không được phép tham dự. Nhưng tại cuộc họp báo sau đó, các quan chức đại diện
chính quyền trung ương và địa phương “thi nhau nhắc nhở” giới truyền thông nên
thông tin sự việc một cách “có chừng mực”, không làm tình hình thêm phức tạp,
gây hoang mang trong nhân dân, dẫn đến thiệt hại cho nhân dân. Thậm chí có quan
chức còn dọa, “nếu không khéo” thì sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu hải sản. Trong
thời đại internet và truyền thông trực tuyến mà vẫn tư duy như vậy thì nguy
quá.
Trong khi dư luận đang bức xúc vì chính quyền chậm chễ và nghi
vấn bao che cho Formosa thì ông Chu Xuân Phong (phó phòng đối ngoại Formosa) đã
có phát biểu gây sốc khi tự tin và dõng dạc trả lời phỏng vấn VTC News (sáng
25/4) như đưa ra một tối hậu thư, “tôi công nhận việc xả thải là ít nhiều có
ảnh thưởng đến môi trường, nước xả thải ra hòa lẫn với nước biển chắc chắn làm
thay đổi môi trường, ca tôm ít đi là điều đương nhiên…Trước khi xây dựng dự án
này thì công ty phải xin phép nhà nước Việt Nam. Nhiều khi được cái nọ mất cái
kia, đây là tôi nói thật lòng. Hôm nay nhà nước mình muốn cho ngư dân đánh bắt
ở đây hay là chọn cái nhà máy thép ở đây, đương nhiên nhà nước phải có sự cân
nhắc…Nếu xả thải thì đương nhiên sẽ thay đổi sinh học ở đây, ở vùng biển quanh
đây… Hai cái này mình phải lựa chọn một, tôi muốn bắt cá bắt tôm hay tôi muốn xây
dựng một ngành thép hiện đại…cứ chọn đi! Nếu chọn cả hai thì làm thủ tướng cũng
không giải quyết được!”
Không biết ông Phàm thật thà hay ngu ngốc, chỉ biết ông ta đã đổ
thêm dầu vào lửa. Và tai hại hơn nữa là ông ta đã nói toạc móng heo (như vạch
áo cho người xem lưng) trong khi các quan chức Việt Nam còn loanh quanh úp mở
và hoãn binh để đối phó. Nói cách khác, ông Phàm đã gián tiếp khẳng định rằng
chính quyền Việt Nam đã ý thức được rủi ro và hậu quả nghiêm trọng này, nhưng
vẫn làm ngơ mà ký văn bản cho phép Formosa triển khai dự án (tức là đánh đổi).
Đây là một sự thật mà ông Phàm đã gián tiếp thừa nhận (dù vô tình hay hữu ý).
Người ta hay gọi hiện tượng lỡ lời này là “Freudian slip” (ngoài kịch
bản).
Ngay lập tức, tiến sĩ Lê Đăng Doanh (nguyên viện trưởng Viện
Nghiên Cứu Quản lý Kinh tế TƯ) đã “nổ súng” bằng một loạt đạn sát thương và dẫn
đường (trailblazers), “Tôi phản đối tuyên bố đầy thách thức và có tính chất đầy
xúc phạm đến đất nước Việt Nam của vị giám đốc doanh nghiệp trên. Dù chúng ta
chưa có kết luận chính xác vụ việc, nhưng việc một doanh nghiệp tuyên bố như
vậy không thể chấp nhận được… Chúng ta không thể có lựa chọn hy sinh tài nguyên
môi trường, đó là sự vi phạm công ước quốc tế về môi trường…”
Phản ánh dư luận bất bình của cả nước, ông Doanh bức xúc lên án,
“Dù chưa xác định chính xác nguyên nhân, nhưng tuyên bố này là thái độ bàng
quan trước vấn nạn của một đất nước. Thái độ thách thức của nhà đầu tư đối với
người Việt Nam là không thích hợp. Tôi được biết, trước đó, Formosa đã nhập một
lượng lớn các chất độc và cực độc về Việt Nam để súc rửa đường ống. Chúng ta
phải yêu cầu họ báo cáo số chất độc đó đi đâu? Ai cho phép họ nhập về… Đây là
hệ quả rất nghiêm trọng khi chúng ta quá nuông chiều các tập đoàn, các doanh
nghiệp ngoại… Không thể nào để cho một nhà đầu tư tuyên bố thay Việt Nam chọn
thép để đánh đổi lấy sự mất đi của tài nguyên thiên nhiên. Cái giá đó quá đắt
và chúng ta sẽ kể lại cho hậu thế như thế nào đây… Ông Doanh kết luận, nếu kết
luận điều tra đúng với thực tế, chúng ta hoàn toàn có quyền khởi kiện. Khi đó,
họ không chỉ vi phạm các quy định pháp luật Việt Nam mà còn vi phạm các công
ước quốc tế về bảo vệ các sinh vật biển”.
Không phải chỉ có ông Lê Đăng Doanh, mà hầu hết những người Việt
Nam hiểu biết và có lòng tự trọng đều bức xúc và phẫn nộ trước thái độ ngạo mạn
và thách thức của đại diện Formosa, cũng như thái độ nhu nhược và vô trách
nhiệm của chính quyền. Tiến sĩ Lưu Bích Hồ (nguyên viện trưởng Viện Chiến lược
phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tuy tuổi đã cao, nhưng quá bức xúc phải lên
tiếng, “Tôi nghe mà rất bất bình, chúng ta đặt ra yêu cầu đầu tư luôn gắn bảo
vệ môi trường, ai cũng vậy, doanh nghiệp trong nước phải làm, doanh nghiệp nhà
nước càng phải làm mà doanh nghiệp nước ngoài càng phải thực thi tốt hơn vì họ đến
từ nước phát triển hơn chúng ta…Không thể chấp nhận được thông điệp chọn 1
trong 2, điều này không đúng với chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài của Việt
Nam. Không thể và không ai có quyền bắt Việt Nam phải chọn 1 trong 2, đánh đổi
kinh tế để hy sinh điều kiện sống…”
Xã luận báo PetroTimes (ngày 25/04/2016) còn đề xuất cụ thể, “Bộ
Công an nên mở chuyên án và yêu cầu sự phối hợp của cảnh sát môi trường các
tỉnh nêu trên. Trong quá trình điều tra chuyên án này, có 2 việc chính mà cơ
quan công an phải làm rõ: Đó là phát hiện và xử lý các tổ chức, cá nhân gây ô
nhiễm, phá hoại môi trường. Sau đó là xử lý các cá nhân, tổ chức bao che cho
người vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoặc thiếu trách nhiệm để xảy ra ô
nhiễm, sự cố môi trường. Đặt giả thiết nếu đúng là Formosa gây ô nhiễm, đương
nhiên công ty này sẽ bị xử lý, nhưng các cơ quan chức năng, các cơ quan kiểm
soát môi trường ở Hà Tĩnh cũng khó có thể tránh được việc phải chịu trách
nhiệm…”
Chiều 26/4, lãnh đạo Formosa Hà Tĩnh đã tổ chức họp báo, nhưng chỉ
kéo dài khoảng 30 phút rồi đột ngột kết thúc trước sự ngỡ ngàng của các phóng
viên tham dự, với lý do “bận làm việc với lãnh đạo Hà Tĩnh” (còn báo chí chắc
không quan trọng?). Về phát biểu của ông Chu Xuân Phàm, ông Trương Phục Ninh
(Phó TGĐ Formosa) nói phát biểu của ông Phàm “làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới
mối quan hệ tốt đẹp giữa Formosa với chính quyền Hà Tĩnh và Chính phủ Việt Nam”
(tại sao không nhắc gì đến người dân?) và ngụy biện, “đây là ý kiến cá nhân của
ông Phàm và công ty sẽ xử phạt nghiêm khắc” (vì ông này “lỡ lời” nói ra sự
thật?). Họ không lý giải gì về hệ thống xả thải cũng như việc kiểm soát nước
thải trước khi đổ ra biển thế nào, mà chỉ nói vấn đề cá chết hàng loạt với nước
thải của Formosa có liên quan hay không “phải đợi các cơ quan của Việt Nam kết
luận”. (Chắc họ tin kết luận đó có lợi cho họ?). Chắc họ nghĩ rằng chỉ cần cúi
đầu xin lỗi cho qua chuyện (và tiếp tục hối lộ ai đó) là có thể xoa dịu hay bịt
miệng được dư luận đang bất bình. Điều này nghe có vẻ phi lý, nhưng đáng tiếc đó
có thể là sự thật đáng buồn. (Như một kịch bản đã được thỏa thuận ngầm từ
trước).
Cuộc họp báo tối 27/04/2016 của bộ TN&MT còn kịch tính hơn
cả họp báo của Formosa (ngày hôm trước), vì chỉ kéo dài khoảng 10 phút sau khi
hàng trăm phóng viên chờ đợi hơn nửa ngày (trong khi đại diện 7 bộ và các viện
họp kín). Sau khi thông báo hoãn họp, ông Võ Tuấn Nhân (thứ trưởng bộ
TN&MT) lại quyết định họp báo để công bố “kết quả điều tra” nguyên nhân cá
chết, bằng một thông báo cụt lủn rất vô lý và vô cảm, “có hai nhóm nguyên tố
chính: Một là do tác động của độc tố hoá học của con người và trên biển, và hai
là do tác động của hiện tượng tảo nở hoa hay thủy triều đỏ…Hiện chưa thấy mối
liên hệ giữa hoạt động của Formosa với tình trạng cá chết hàng loạt này… Các cơ
quan chuyên môn sẽ tiếp tục nghiên cứu theo 2 hướng kể trên. Nếu cần thiết sẽ
mời chuyên gia quốc tế kiểm chứng”.
Dư luận cho đó là một cuộc họp báo “kỳ quặc có một không hai”.
Bất chấp dư luận đang bức xúc và bất bình về nguyên nhân của tai họa môi trường
làm cá chết hàng loạt, thì ông Nhân đã đổ thêm dầu vào lửa (không khác gì ông
Chu Xuân Phàm). Tại sao họ lại giống nhau thế? Ông Nhân không đưa ra được kết
quả cụ thể nào (dù sau một tháng) mà còn đánh lạc hướng dư luận về nguyên nhân
cá chết (do “thủy triều đỏ”) để bao che cho Formosa là nghi phạm chính (prime
suspect), bằng cách giải thích ngớ ngẩn để dư luận phản ứng. Có người nghi vấn
phải chăng đây là kế hoãn binh để nghi phạm có thời gian xóa dấu vết? Kỳ quặc
hơn nữa là khi một phóng viên báo Thanh Niên hỏi nguyên nhân cá chết có phải do
nhiễm độc, ông Nhân đã hoảng hốt ngắt lời không cho hỏi tiếp, và nói câu hỏi đó
“làm tổn hại đất nước mình”. Hóa ra kẻ làm “tổn hại đất nước mình” không phải
Formosa mà là các nhà báo?
Tiếp theo tuyên bố hùng hồn (nhưng hơi đơn độc) của tân thủ
tướng NXP “vào cuộc” và “xử lý nghiêm”, và trước mong đợi của dư luận đang bức
xúc như cái nồi áp suất khổng lồ, thì cuộc họp báo của ông thứ trưởng bộ
TN&MT là một cú “hẫng hụt” (anti-climax) như trong một vở kịch tồi vì thiếu
kịch bản. Không hiểu đây là màn kịch của một trò chơi cao tay để kích động dư
luận, nhằm sử dụng dự án Vũng Áng để đánh tiếp ông 3X, hay đây là kết quả can
thiệp vội vã và thô bạo của ông bạn láng giềng lớn muôn bảo vệ dự án này đang
bị đe dọa (có thể “mất kiểm soát”). Nếu là kịch bản thứ hai thì đó là một tin
xấu (bad news). Liệu có phải trong khi dòng hải lưu tại Biển Đông đang chảy về
phía Nam, thì dòng hải lưu của Đảng vẫn tiếp tục chảy về phía Bắc? (mặc dù ban
lãnh đạo đang chuẩn bị đón ông Obama).
Cuộc họp kín (ngày 27/4) giữa đại diện 7 bộ và mấy viện, kéo dài
nhiều giờ chắc có nhiều ý kiến tranh cãi khác nhau (như “tay phải tay trái”),
nhưng dường như đã bị một sức ép nào đó áp đặt từ trên xuống (hay từ ngoài
vào). Tại sao kết luận và cách ứng xử của ông thứ trưởng bộ TN&MT lại “kỳ
quặc” như vậy? Thực ra, ông Nhân cũng chỉ là nạn nhân phải “đổ vỏ” cho những
người khác (mà bộ TN&MT là một tội đồ). Dù đây là một vở kịch tồi (khó chấp
nhận) thì nó cũng phản ánh một thực tế đáng buồn là “cải cách thể chế” và “thoát
Trung” (tuy cấp bách) vẫn là những mục tiêu rất khó thực hiện vào lúc này. Nó
lý giải sự lúng túng và bất lực đến thảm hại của chính quyền trước một tai họa
môi trường với quy mô quốc gia, mà lẽ ra chính phủ đã phải ban bố “tình trạng
khẩn cấp” (emergency) để kêu gọi cộng đồng quốc tế cứu trợ. Thực ra tai họa này
còn nguy hiểm hơn cả một trận động đất lớn.
Thảm họa môi trường: Đẳng tử (slow death)
Tôi muốn chúng ta vinh danh những người dân lao động bình thường
nhưng dũng cảm, đã tự nguyện đóng góp trách nhiệm của mình để rung tiếng chuông
báo động, trong khi những người có trách nhiệm lại thờ ơ và vô cảm. Đó là Ngư
dân Nguyễn Xuân Thành (36 tuổi) trú tại Kỳ Anh (Hà Tĩnh) là người đã lặn xuống
biển (ngày 4/4) và phát hiện ra đường ống xả thải khổng lồ của dự án Formosa
đang phun nước thải “có màu vàng đục, nhừa nhựa, mùi hôi thối, khi ngửi thì cảm
thấy rất ngạt thở”. Sau khi phát hiện đường ống trên, anh đã tới Đồn biên phòng
Đèo Ngang trình báo, và vẽ lại sơ đồ và vị trí của đường ống…”
Đó là anh Hoàng Văn Đoán đã tự nguyện lặn xuống biển ghi hình
đường ống ngầm này. Anh Đoán kể cụ thể, “Họ dùng đá đè lên những ống này để dân
không thể nhìn thấy được. Trong đó còn có 3 ống to và cao khoảng 2 mét phía
trên đậy nắp cao su, mỗi lần xả ra thì nắp cao su lại bung lên, còn khi không
xả thải thì ống cao su này đậy nắp ống lại. Mới hôm qua tôi lặn xuống thì không
còn thấy họ xả nữa, có lẽ là sau khi có tin trên báo thì họ đã cho ngừng xả
rồi”. Hiện nay anh Thành đang phải lẩn trốn (vì bị áp lực). Có ai bảo vệ
họ không?
Không phải chỉ có tôm cá, chim muông, cây cối bị chết, mà tính
mạng con người cũng đang bị đe dọa. Đến nay đã có một thợ lặn của nhà thầu dự
án Formosa đã chết (anh Ngây). Một số thợ lặn khác đang điều trị ở bệnh viện vì
bị nhiễm độc. Ngày 15/4/2016 tại dự án Formosa, nhiều công nhân đã bị ngộ độc thực phẩm tại nhà bếp của dự án, làm
29 người phải nhập viện, và nhiều người khác có dấu hiệu bị nhiễm độc nhưng nhẹ
hơn. Đáng lưu ý là quá trình nhiễm độc của họ diễn ra từ từ chứ không đồng loạt
như ngộ độc thực phẩm.
Trấn an dư luận là cần thiết, nhưng trấn an bằng cách bưng bít
sự thật trong trường hợp xảy ra thảm họa môi trường quy mô lớn, trong khi chính
phủ đang kêu gọi cộng đồng quốc tế cứu trợ khẩn cấp, có thể nguy hiểm và phản
tác dụng. Có thể các quan chức ăn hải sản và tắm biển để nêu gương là do chỉ
đạo, nhưng không phải là ý hay. Chắc dư luận quốc tế cũng như trong nước sẽ
không chấp nhận những cách ứng xử thiếu khoa học và thiếu trách nhiệm đó. Hoặc
là do một số người vẫn chưa ý thức được quy mô to lớn và tính chất nguy hiểm
của thảm họa môi trường biển Miền Trung lần này nên “điếc không sợ súng”, hoặc
là do họ biết nhưg vẫn lờ đi vì động cơ riêng (phải giấu), thì đều phải chịu
trách nhiệm về hệ quả.
Dù muốn tin hay không thì thảm họa môi trường biển Vũng Áng có
thể biến thành thảm họa Vịnh Minamata (Nhật Bản). Hãy đọc lại hồ sơ Minamata
(1932-1968) và hồ sơ Formosa ở Campuchia (1998) và Formosa ở Mỹ (2009) để xem
Formosa và Chisso có gì khác/giống nhau. Công ty Chisso đã sử dụng thủy ngân
làm xúc tác để sản xuất acetaldehyde, axit acetic và các chất dẻo. Trong quá
trình sản xuất, methyl thủy ngân được sinh ra đã được đổ thẳng xuống vịnh Minamata
mà không qua xử lý. Chỉ vì lợi ích kinh tế mà Chisso đã bỏ qua bảo vệ môi
trường nên người Nhật đã phải trả giá quá đắt và quá lâu cho tai họa môi trường
Minamata (đến tận bây giờ), như một bài học cảnh tỉnh cho nhiều người khác.
Formosa (và những nhà đầu tư khác) đến Việt Nam kinh doanh vì
lợi ích của họ, chứ đâu phải vì Việt Nam (hay vì Hà Tĩnh). Hầu hết họ không
quan tâm bảo vệ môi trường (vì rât tốn kém), trừ khi ta đủ năng lực buộc họ
phải làm như vậy. Hình như chẳng ai đếm xỉa đến trách nhiệm cộng đồng hay cam
kết bảo vệ môi trường của Formosa trong dự án này. Họ cứ nói là làm “đúng luật
Việt Nam”, nhưng là luật nào, theo tiêu chí nào, có phù hợp với tiêu chuẩn quốc
tế không? Đây là dịp để hai bên rà soát lại (cả văn bản lẫn thực hiện) có sự
giám sát của bên thứ ba độc lập (third party independent inspectors). Chính lỗ
hổng này dẫn đến phát biểu gây sốc của ông Chu Xuân Phàm, vì lâu nay ông ấy
hiểu như vậy. Nếu không tại sao ông ấy lại có thái độ ngạo mạn như vậy?
Có lẽ vì chính quyền Hà Tĩnh (và trung ương) quá “nuông chiều” mà không ràng
buộc họ bằng những cam kết môi trương và trách nhiệm xã hội. Qua sự việc này,
Sở TN&MT Hà Tĩnh đã không làm tròn trách nhiệm giám sát đối với Formosa.
Liệu Sở có nắm được Formosa đã xả ra biển những chất gì, có phù hơp với
tiêu chí không? Không thể cứ nói khống là họ “làm đúng luật và đúng quy định”
là xong. Việt Nam còn thua kém cả Campuchia! Sở TN&MT phải chịu trách
nhiệm chính trong thảm họa môi trường này.
Không biết trong quá trình thẩm định đối tác và dự án (due
diligence) các quan chức tỉnh (và trung ương) có tìm hiểu kỹ “lý lịch môi
trường” của Formosa không? Họ dựa trên các tiêu chí gì để đánh giá đối tác, hay
chỉ quan tâm đến kinh phí khủng (nhiều tỷ USD) là lóa mắt. Đối với các nhà đầu
tư Đài Loan (đặc biệt là Trung Quốc) lại càng phải cảnh giác về lý lịch môi
trường của họ. Hãy xem họ đã phá hủy môi trường Trung Quốc như thế nào, nếu
không muốn họ tiếp tục biến Việt Nam thành bãi đổ rác, và hủy hoại môi sinh/môi
trường, chỉ vì lợi ích trước mắt, để lại di họa lâu dài. Nếu bây giờ vẫn chưa
biết rõ lý lịch môi trường của Formosa thì hãy tham khảo người Campuchia hay
người Mỹ) là khắc biết.
Năm 1998, Formosa đã “xuất khẩu” sang Campuchia hơn 3.000 tấn
rác nhiễm độc thủy ngân, do tàu Chang-Shun chuyển đến Sihanoukville. Một công
nhân bến cảng dọn dẹp hầm tàu Chang-Shun đã phải nhập viện và chết ngay sau đó.
Khi tin tức lộ ra là số rác thải này chứa thủy ngân, hàng chục ngàn người hoảng
sợ đã rời bỏ thành phố, và tức giận đập phá các công sở. Cuộc bạo động này đã
làm chết nhiều người. Người phát ngôn Formosa nói rằng rác chỉ nhiễm thủy ngân
“hơi vượt mức quy định một chút” (0,2 PPM). Nhưng khi Campuchia gửi mẫu rác
sang Hong Kong xét nghiệm thì kết quả ở mức nguy hiểm (10971 PPM!) Chính phủ
Campuchia đã điều tra ra và buộc tội Formosa hối lộ 3 triệu USD các quan
chức địa phương để vận chuyển rác trót lọt, đã bắt Formosa bồi thường, xin lỗi
và chuyển số rác thải này về Đài Loan. Hơn 30 quan chức địa phương CPC đã bị kỷ
luật trong vụ này.
Tại các bang Texas và Louisiana (Mỹ), các nhà máy của Formosa đã
bị phát hiện xả các chất độc dichloroethane (EDC), dioxin, và chroroform vào
đất, nước ngầm, và sông Mississippi. Năm 2009, Formosa bị Cơ quan Bảo vệ Môi
trường Hoa kỳ (EPA) phạt 2,8 triệu USD, đồng thời bị buộc phải chi 10 triệu USD
để khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường tại hai bang Texas và Louisiana. Hồ sơ
môi trường của Formosa “nổi tiếng” đến nỗi đã trở thành ví dụ minh họa trong bộ
sách giáo khoa Luật Môi trường của Barry Hill tại Mỹ (Environmental Justice,
Legal Theory and Practice, Barry Hill, 3rd Edition, 2014). Chính vì vậy mà ông
Lee Chih-Tsuen (CEO của Formosa) đã phải nhận “giải thưởng hành tinh đen” năm
2009.
Công ty Formosa Ha Tinh (Cayman) Limited được thành lập và mua
lại 100% cổ phần của FHS. Các cổ đông của FHS thay vì sở hữu trực tiếp thì nay
sở hữu gián tiếp qua Formosa Ha Tinh được thành lập tại quần đảo Cayman (một
trong ba thiên đường trốn thuế lớn nhất thế giới). Việc tái cấu trúc sở hữu
giúp cho các cổ đông của FHS thuận tiện hơn trong việc mua/bán cổ phần. Ngoài
ra pháp nhân thành lập tại Cayman còn có thể dễ dàng niêm yết tại những thị
trường chứng khoán hàng đầu thế giới như Mỹ hay Hongkong.
Nếu những người trong chính quyền (Hà Tĩnh hay TW) liên quan đến
việc cấp phép và bảo kê cho Formosa (như nhóm lợi ích) nghĩ rằng họ có thể im
lặng cho qua chuyện, hoặc dựa vào thế lực nào đó để tiếp tục bịt miệng dư luận
như trước, thì họ nhầm. Khi sự việc vỡ lở và diễn biến khôn lường trong một
cuộc khủng hoảng môi trường với quy mô lớn thì không ai có thể bưng bít được
thông tin hay chùm chăn để tự giải quyết. Nếu vì tham (“cố đấm ăn xôi”) hay vì
liều (“đâm lao phải theo lao”) thì sẽ nguy hiểm cho cộng đồng và cho chính họ
(hay họ hàng và người thân). Họ có thể bị biến thành “vật tế thần” trong bối
cảnh đấu tranh quyền lực còn tiếp diễn, và khi người dân quá bức xúc và tuyệt
vọng mà “tức nước vỡ bờ” xuống đường biểu tình hay bạo động. Điều đó đã từng
xảy ra tại Campuchia (năm 1998).
Theo các nhà khoa học, vào thời điểm này khi gió Tây Nam đưa dòng
nước biển (tầng nông) qua phía đảo Hải Nam, nên hiện tượng cá chết chưa kịp lan
xuống Nam Trung Bộ. Hơn nữa nguyên nhân làm cá chết là do độc tố trong nước
thải đổ ra biển hầu hết có tỷ trọng nặng hơn nước biển, nên lắng xuống đáy làm
cá dưới tầng sâu bị chết nhiều. Vì vậy, dựa vào “thủy triều đỏ” để lý giải cá
chết là do rong tảo trôi nổi trên biển (tầng nông) là không logic và không
thuyết phục. Theo quy luật dòng hải lưu chảy theo mùa và khí hậu biển như trên,
thì chất độc trong nước biển không chỉ tồn tại ở vùng biển 4-5 tỉnh Miền Trung
(như hiện nay) mà còn có nguy cơ tiếp tục di chuyển xuống phía Nam, đến tận Phú
Quốc. Vì vậy, Thảm họa môi trường này cực kì lớn đối với cả nước, với hệ quả
trực tiếp và gián tiếp khôn lường.
Theo chuyên gia Nguyễn Minh Quang, nước thải từ đường ống ngầm
có chứa ammonia (NH3)/ammomium (NH4+) ở nồng
độ cao. Có hai bằng chứng vững chắc và đáng tin cậy để kết luận như thế.
Thứ nhất, Formosa là một nhà máy luyện thép, nên phải luyện than đá thành than
coke. Nước thải trong quá trình này chứa nhiều chất ô nhiễm vô cơ, trong
đó có ammonia (NH3) ở nồng độ cao. Theo một nghiên cứu, nồng độ
của ammonia (NH3-N) trong nước thải từ tiến trình luyện than coke
thay đổi từ 230 đến 668 milligrams per liter (mg/L). Thứ hai, kết quả phân tích
mẫu nước thu thập ở khu vực đầm Lập An (Lăng Cô) cho thấy nồng độ của ammomium
(NH4+-N) trong nước biển vượt quá tiêu chuẩn (khoảng 0,4
mg/L so với 0,1 mg/L). Trong thực tế, nồng độ của ammonia (NH3)
trong nước biển cao hơn rất nhiều vì chỉ có một phần rất nhỏ ammonia biến thành
ammonium (NH4+). Như vậy, sự có mặt của ammonia
trong nước biển phù hợp với sự có mặt của ammonia trong nước thải từ dự án
Formosa.
Trong khi Biển Đông lại đang dậy sóng, đe dọa chủ quyền quốc gia
và cuộc sống của ngư dân, trong khi đồng bằng sông Mekong đang bị khô hạn và
ngập mặn, đe dọa vựa lúa của cả nước, thì bờ biển các tỉnh Miền Trung lại bị
nhiễm độc, đe dọa nguồn sống của hàng triệu ngưòi, bởi thảm họa môi trường do
con người gây ra. Có lẽ người dân đã quá quen (và mất lòng tin) vào cách giải
thích vô lý và thái độ ứng xử vô cảm của lãnh đạo các cấp có thẩm quyền (nhưng
vô trách nhiệm). Người dân đang kêu cứu tuyệt vọng, “họ bỏ mặc chúng tôi!”. Lúc
này người dân vùng bị nạn cần được trợ giúp kịp thời bởi các tổ chức dân sự
trong nước và quốc tế. Thảm họa này, cần được “xã hội hóa” và “quốc tế hóa”
nhằm giúp điều tra nguyên nhân và cứu trợ nhân đạo kịp thời (để tránh bạo động
khi người dân tuyệt vọng). Không sợ nguy cơ “thủy triều đỏ” trên biển, mà nên
sợ nguy cơ “thủy triều đỏ trên bờ”.
Những tảng băng chìm: Quá rủi ro (high risks)
Rủi ro tiềm ẩn về môi trường:
Một khu kinh tế lớn như Vũng Áng với những ngành công nghiệp
nặng (như luyện thép) có nguy cơ rất lớn về ô nhiễm môi trường, đe dọa nền kinh
tế biển, nhất là khi vẫn chấp nhận công nghệ lạc hậu của Trung Quốc. Theo số
liệu thống kê, để sản xuất được một tấn thép thô bằng công nghệ lò cao, sẽ phải
thải ra hơn 585 kg chất thải rắn, trong đó có 455 kg xỉ. Đồng thời, để sản xuất
mỗi tấn thép thô sẽ tạo ra 3m3 nước thải độc hại. Với công suất 10,5 triệu tấn
thép/năm (giai đoạn 1), Formosa có thể thải ra hơn 31 triệu m3 nước thải độc
hại và 6 triệu tấn chất thải rắn nếu không qua xử lý. Ngoài ra, lượng khí thải
ra từ việc sản xuất 1 tấn thép thô có 2,3 tấn CO2, cùng các loại khí CO, SO2,
NOx, bụi và bụi kim loại….
Hiện nay, nước biển tại các tỉnh Miền Trung đã và đang chứa một
lượng hóa chất cực độc có thể giết mọi sinh vật (kể cả người). Không phải chỉ
có các loài thủy sinh dưới biển (như tôm, cá, cua, ngêu, sò), mà các loài chim
biển trên bờ (như đảo chim “Hòn Gió”) và rừng ngập mặn (như sú vẹt) đã và đang
chết với quy mô lớn. Nếu người dân các tỉnh Miền Trung không dám ăn tôm cá,
không dám tắm biển (vì sợ ngộ độc) thì ngành hải sản và du lịch Việt Nam sẽ
tiêu điều. Khi hàng triệu ngư dân không có việc làm để kiếm sống, sẽ tuyệt
vọng kéo về thành phố thì đất nước này sẽ bất ổn. Điều đó tiềm ẩn một tai họa
khôn lường.
Trong lúc chờ kết luận chính thức của chính phủ, chúng ta có thể
dựa vào kết quả xét nghiệp sơ bộ của sở NN&PTNT Thừa Thiên-Huế, kết hợp với
kết quả xét nghiệp độc lập tại nước ngoài của một số nhà nghiên cứu, và ý kiến
đóng góp của các chuyên gia trong/ngoài nước để đánh giá và kết luận sơ bộ, làm
cơ sở để chế rủi ro và giảm thiểu tâm trạng bức xúc của người dân. Tuy các ý
kiến còn có điểm khác nhau, nhưng đều khẳng định cá chết là do nhiễm độc bởi
các độc tố trong nước biển như: kim loại nặng, cyanide, hoặc ammonia.
Trong trường hợp xấu nhất, Vũng Áng có nguy cơ trở thành Vịnh
Minamata (Nhật Bản) là một thảm họa về môi trường, được Nhật Bản và thế giới
ghi nhận như một bài học điển hình để cảnh báo. Tại Minamata, hàng ngàn người
đã bị chết và hàng vạn người đã bị tàn phế do nhiễm độc kim loại nặng (thủy
ngân hữu cơ) bị xả thải ra môi trường biển mà không được xử lý, không có giám
sát và kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến hệ quả lâu dài và nan giải cho môi
trường/môi sinh, sức khỏe con người, làm thiệt hại lớn về kinh tế và xã hội …
Rủi ro tiềm ẩn về lợi ích kinh tế:
Tại Diễn đàn Kinh tế Biển (tại Hà Tĩnh, 7/6/2013) ông Chu Phạm
Ngọc Hiển (Thứ trưởng Bộ TN&MT) cho biết, mục tiêu của Việt Nam đến năm
2020, kinh tế biển sẽ đóng góp 53-55% GDP. Ông Hiền sẽ nói thế nào sau thảm họa
môi trường này? Chắc chắn VN sẽ mất một nguồn thu lớn cùng thương hiệu xuất
khẩu hải sản (ước tính mỗi năm khoảng 7 tỷ USD). Bên cạch đó, gần như chắc chắn
các địa phương này sẽ thất thu lớn về nguồn khách du lịch (cả nước ngoài lẫn
trong nước). Trong thời đại internet, hy vọng có thể bưng bít thông tin và
tuyên truyền theo kiểu tuyên huấn để trấn an dư luận là ngớ ngẩn và phản tác
dụng.
Ngoài ra, còn một rủi ro tiềm ẩn khác là có thể bị thất thoát
tài nguyên (như kim loại quý) do bị khai thác trộm mà không biết. Tuy chưa có
chứng cớ, nhưng đây là một nghi vấn cần xác minh. Theo các nhà khoa học, đá ở
khu vực Vũng Áng rất giống loại đá phosphorite, và nước thải từ dự án Formosa
rất giống nước thải từ quá trình khai thác vàng. Khi khai thác đá phosphorite,
sẽ giải thoát một lượng lớn PO4, ion Ag cũng như một số kim loại nặng vào nước
thải. Được biết tại khu vực Miền Trung có nhiều mỏ vàng và kim lọai quý hiếm,
do đó khả năng chất thải từ việc khai thác vàng và kim loại quí hiếm cũng không
phải thấp.
Trong kỹ thuật khai thác mỏ kim loại, NaCN thường dùng để chiết
xuất vàng và các kim loại quí hiếm. Thí dụ trong trường hợp chiết xuất
vàng từ quặng, NaCN giúp biến vàng thành chất có thể tan trong nước theo phản
ứng sau và đồng thời sản xuất NaOH, một bazơ mạnh theo phương trình sau: 4 Au +
8 NaCN + O2 + 2 H2O
→ 4 Na[Au(CN)2] + 4 NaOH. NaCN là một loại muối rất dễ tan trong
nước. Nếu không kết hợp với kim loại thì ion cyanua sẽ xuất hiện ở dạng
ion trong nước thải. Vì phản ứng hóa học thải ra NaOH do đó nồng độ pH của nước
sẽ tăng (phù hợp với báo cáo của Sở NN&PTNT Thừa Thiên – Huế).
Rủi ro tiềm ẩn về an ninh quốc phòng:
Khu vực Vũng Áng và Sơn Dương có một vị trí đặc biệt quan trọng
đối với an ninh quốc phòng. Cách đây gần 500 năm, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã từng viết: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Theo KS Doãn Mạnh Dũng,
(phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật và Kinh tế Biển) thì Sơn Dương là một trong
bốn yếu huyệt bảo vệ Việt Nam từ hướng biển, đuợc xếp theo thứ tự: Cam Ranh,
Sơn Dương, Nam Du và Côn đảo. Bốn yếu huyệt này được xác định dựa vào những yếu
tố địa lý tự nhiên. (Người Đô Thị, 29/4/2016).
Cảng Sơn Dương nằm phía nam Vũng Áng, cùng vĩ tuyến với
quân cảng Du Lâm (Tam Á, Hải Nam) là nơi hạm đội tàu ngầm hạt nhân của Trung
Quốc neo đậu. Vũng Áng chỉ cách Tam Á hơn 300km. Sơn Dương nằm ngay phía bắc
đèo Ngang, nơi Quốc Lộ 1A đi qua đèo và đường hầm xuyên qua núi. Sau khi
xây đê chắn sóng dài 3.000m từ mũi Ròn đến hòn Sơn Dương thì cảng này vừa kín
gió, vừa rộng, lại vừa sâu (trên 16m). Vì vậy, cảng Sơn Dương là yếu huyệt của
vịnh Bắc Bộ, kiểm soát đường biển và đường bộ từ Miền Nam và Miền Trung ra Miền
Bắc. Cảng Sơn Dương phía Nam Vũng Áng là vị trí duy nhất của cả miền Bắc có
thể đón tàu sân bay cập bến được. Vị trí này nằm cạnh Đèo Ngang, có hầm
Đèo Ngang là con đường độc đạo, “chỉ cần hai trung đội là đủ để cắt đôi đất nước”.
Trong khi đó, số người Trung Quốc làm ở Vũng Áng là hơn 4.000 người (tương
đương 2 sư đoàn).
Vị trí Sơn Dương là đắc địa đối với hải quân Việt Nam, phải dành
cho Hải quân Việt Nam để bảo vệ đất nước (chứ không được dành cho nước ngoài).
Thật vô nghĩa nếu chúng ta dành vị trí đắc địa này cho Trung Quốc, trong khi
mua tàu ngầm Kilo và máy bay Su-30MK để đối phó với Trung Quốc. Một nước nhỏ và
nghèo như Việt Nam phải biết tận dụng những lợi thế địa lý tự nhiên của mình.
Hải quân Việt Nam phải có các căn cứ hải quân đủ khả năng phòng ngự hay tấn
công, có độ sâu và độ rộng thích hợp để tiếp nhận được nhiều loại tàu quân sự,
và có núi cao để che chắn bảo vệ. Vì vậy, việc hợp tác với các đối tác nước
ngoài về kinh tế ở các vị trí đắc địa như Sơn Dương cần cân nhắc kỹ đến nhu cầu
an ninh quốc phòng (khi xảy ra chiến tranh). Việc để cho nhà đầu tư Đài Loan
(hoặc Trung Quốc) đầu tư lâu dài tại Sơn Dương là một sai lầm. Làm kinh tế là
để sống, “chứ không phải làm để chết”!
Trong bài “tam giác căn cứ quân sự Du Lâm-Vũng Áng-Cửa Việt”
(BVN, 2/3/2014) tác giả Nguyễn Hữu Quý cho rằng việc tập đoàn Tata Steel (Ấn
Độ) quyết định rút khỏi dự án thép 5 tỉ USD tại Vũng Áng (năm 2014) và việc tập
đoàn Formorsa quyết định tăng quy mô dự án thép của họ lên 28,52 tỷ USD hầu như
chắc chắn có bàn tay của Trung Quốc. Họ muốn gạt Ấn Độ ra khỏi địa bản này và
mua lại cổ phần Formosa để thao túng Vũng Áng. Theo nhiều nguồn tin, Formosa đã
bán lại cổ phần tại Vũng Áng cho Trung Quốc.
Formosa Ha Tinh (Cayman) Limited được thành lập và mua lại 100%
cổ phần của FHS. Các cổ đông của FHS thay vì sở hữu trực tiếp thì nay sở hữu
gián tiếp qua Formosa Ha Tinh (Cayman) được thành lập tại quần đảo Cayman (một
thiên đường trốn thuế nổi tiếng trên thế giới). Việc tái cấu trúc sở hữu giúp
các cổ đông của FHS có thể mua/bán cổ phần dễ hơn…Theo Taipei Times (28/9/2013)
Formosa Plastics Group (FPG) chỉ còn nắm 59% cổ phần của Formosa Hatinh Steel
thông qua 4 công ty con là Formosa Plastics Corp, Nan Ya Plastics Corp, Formosa
Chemicals & Fibre Corp và Formosa Petrochemical Corp, mỗi công ty con này
đã giảm sở hữu cổ phần từ 21,25% xuống 14,75%. Việc chuyển nhượng cổ phần này
diễn ra một cách mờ ám. Một quan chức Formosa Hà Tĩnh cho biết, tất cả nhân
viên của Formosa Hà Tĩnh đều bị cấm đưa ra bất kỳ bình luận nào về việc chuyển
nhượng cổ phần nói trên…
Việc người Việt Nam (kể cả cơ quan chức năng) không được tự do
ra vào dự án của Đài Loan (hay của Trung Quốc) tại khu kinh tế Vũng Áng, để
kiểm tra và giám sát an toàn môi trường, đã bộc lộ những ý đồ bí mật của Trung
Quốc. Formosa Hà Tĩnh không chỉ là một dự án có nhiều rủi ro tiềm ẩn về môi
trường mà còn có nhiều rủi ro tiềm ẩn về an ninh quốc phòng. Nó đang trở thành
một đặc khu bất khả xâm phạm (như nhượng địa) được “Hán hóa” ngay tại Việt Nam.
Có lẽ vì nhận thấy nguy cơ về an ninh quốc gia tại vị trí xung yếu này, ngày
21/02/2014, Bộ Quốc Phòng đã nâng cấp Đồn Biên phòng cửa khẩu Vũng Áng thành
Ban Chỉ huy Biên phòng cửa khẩu Vũng Áng-Sơn Dương. Nhưng qúa ít và quá muộn
(Too little too late)!
____
Tài liệu tham khảo
- “Chuyện bé như hạt gạo hay thảm
họa quốc gia: Nguy cơ ngộ độc kim loại nặng ven biển miền Trung và những
tác hại lâu dài”, Gs.Ts Trương
Nguyện Thành (Đại học Utah, USA), Thiều Mai Lâm (Đại học Virginia, USA),
ThS. Trần Thị Thanh Thỏa (Đại học Tokyo, Japan), Vietnam Journal of
Science, April 26, 2016.
- “Thảm họa biển Miền Trung: Một
cái nhìn toàn cảnh”, FB Lãng Anh, 23/4/2016
- “Phải mở chuyên án điều tra
nghi vấn phá hoại môi trường”, PetroTimes, 25/4/2016
- “Formosa Hà Tĩnh và 5 tai tiếng
để đời ở Việt Nam”, Café F, 25/4/2016
- “Campuchia từng gửi trả Formosa
chất độc”, BBC, 25/4/2016
- “Đây là tuyên bố đầy thách thức
và xúc phạm”, Dân trí, 26/4/2016
- “Việt Nam trước thảm họa
môi trường”, RFA, 29/4/2016
- “Nguồn độc có khả năng
lan xuống tận Phú Quốc”, Người Đô Thị, 29/4/2016
- “Formosa hủy hoại môi
trường khắp thế giới”, Đại Kỷ Nguyên, 30/4/2016
- “Bộ trưởng Trần Hồng Hà buộc
Formosa đưa ống xả thải lên”, Tuổi Trẻ, 30/4/2016
- “Từ hiểm họa đến vực thẳm”, Tô
Văn Trường, BVN, 1/5/2016
- “Vì sao cá chết hàng loạt dọc
duyên hải miền Trung”, Nguyễn Minh Quang, BVN,1/5/2016
- “Thảm họa môi trường miền Trung
và câu hỏi về một số quy chuẩn VN”, FB Phạm Hồng Phong, 1/5/2016
NQD. 01/05/2016
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 1-5-16
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét