Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

NHỮNG CUỘC ĐỐI ĐẦU GIỮA VĂN HÓA HÁN VÀ VĂN HÓA VIỆT ( Phần 3)

Bài liên quan:

Bản sắc văn hóa Việt: Học Ăn - Học Nói - Học Gói - Học Mở

Trái lại, học ăn, học nói, học gói, học mở thích hợp cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, nó không gò bó trong một khuôn mẫu nhất định. Dân Pháp, học ăn, học nói, học gói, học mở theo văn hóa Pháp; dân Mỹ theo văn hóa Mỹ, dân Ấn Độ, theo văn hóa Án Độ, dân Việt theo văn hóa Việt, v.v...
Mặt khác, nó có điểm chung cho tất cả mọi người và còn có điểm riêng thích hợp cho mọi giới: (nông dân học sinh, công nhân, thương gia, trí thức, chính trị gia, v.v...) trong mọi hoàn cảnh sinh động.
Phải chăng có thể nói triết lý giáo dục - học ăn, học nói, học gói, học mở - mang tính dân tộc nhân bản và hiện thực.
Chẳng hạn, trong nền văn hóa Việt, người trưởng thành sống không thể thiếu ý thức về mình, tức học gói để biết cách nhìn lại chính mình, tự biết mình “trăm hay xoay vào lòng, vì ngọn đèn được tỏ trước khêu bởi mình”, và cũng không thể thiếu ý thức về sự tương quan giữa mình với người, vạn vật cùng thiên nhiên “học mở” để mở rộng cõi lòng, tạo điều kiện thuận lợi cho hạt giống tình thương (cởi mở, bao dung, vị tha) đơm hoa kết trái, mà đỉnh cao tuyệt đỉnh của con người là thăng hoa mãi theo chiều kính tâm linh với định hướng con người hòa cùng vũ trụ.
Người trưởng thành cũng không thể thiếu khéo léo trong việc vận dụng tinh thần tổng hợp (học gói) và tinh thần phân tích (học mở) trong mọi hoạt động của đời sống.
Trong gia đình Việt Nam, con cái - gái hay trai - được cha dạy khôn, mở mang kiến thức, nhìn xa trông rộng (học mở); mẹ dạy khéo léo, phát triển tình cảm, tâm linh qua lời ru (học gói): “cha khôn mẹ khéo”, có chồng thì cùng chồng chung lo xây dựng mái ấm gia đình với nếp sống phân công - chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa - hợp tình hợp lý, tùy hoàn cảnh. Chồng làm những việc nặng nhọc, bên ngoài (học mở) vợ đảm trách những việc nhẹ nhàng bên trong của nội tướng (học gói).
Các nhà chính trị thì phải ý thức “ăn” là kinh tế, “nói” chính trị, “gói và mở” là giáo dục. Ông Lý Đông A, nhà cách mạng Việt Nam, thấm nhuần tinh thần dân tộc với tâm Việt, hồn Việt đã đưa ra một nhận định rất chân xác rằng: “kinh tế, chính trị và giáo dục phải phát triển đồng bộ. Nhưng giáo dục là khởi điểm và chung điểm của chính trị. Chính trị là thiết kế và chấp hành nhân sinh”.
Mặt khác:
Ăn: ăn coi nồi ngồi coi hướng... ăn để sống chẳng phải sống để ăn, với ý nghĩa ươm mầm cho sự thăng hoa cuộc sống và con người qua biểu tượng Thần Tổ Kép Tiên Rồng.
Nói: Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau... sinh ra “đầu đội trời chân đạp đất” con người tương thông với thiên nhiên vũ trụ, vạn vật, “sống làm biết, biết làm sống” từ hiểu nghiệm sống này con người bước vào ngôi nhà tâm linh một cách tự nhiên, giải mã văn tự vô ngôn của trời đất (thiên nhiên) qua tâm thức của dân tộc; rồi chuyển cái chiêm nghiệm lại có “ngôn” (ca dao, tục ngữ, huyền thoại) mà không truyền bằng văn tự. Văn hóa truyền miệng, lấy cuộc sống sinh động, truyền từ sự sinh động qua sự sinh động thiết thực của cuộc sống, không bị đóng khung trong ngôn ngữ chết, chữ nghĩa chỉ nói về sự thật, chứ không phải là sự thật.

Học nói là phương thức diễn dịch tuyệt vời thiên thu vô ngôn của trời đất.
Tổ tiên ta đã truyền lại cho con cháu lộ trình đi vào Thiên Thu Vô Ngôn của trời đất qua biểu tượng gậy thần sách ướcvới ba tờ giấy trắng tinh. (Xem giải mã Gậy Thần Sách Ước - Đạo Sống Việt - Tủ Sách Việt Thường).
Rồi “gói - mở” tức “đóng - mở” “vô - ra” được linh động đem vào thực tế, chuyển tải nhanh chậm tùy thời, ứng dụng sự thuần lý trong mọi việc qua biểu tượng Thần Tổ Kép Tiên Rồng. Tiên (gói) Rồng (mở).
Lối học “hai chiều thuận nghịch” linh động, sáng tạo và hiện thực, mở tâm thức dân tộc một cách tự nhiên, nó không đóng khung, thiếu sáng tạo, không thiết thực cho mọi tầng lớp, một mô hình chết như tu, tề, trị, bình của Tàu.
Có thể nói: ăn, nói, gói, mở mang tính dân tộc, nhân bản và hiện thực; nó giúp cho mọi người ý thức được mi người là bộ Kinh Dịch sống để thích nghi với đi sng sinh động và linh động hằng ngày (học ăn, học nói, học gói, học mở là một phần của giáo dục nhân bản tâm linh không thuộc chủ đề của loạt bài này, cần biết thêm chi tiết xin tìm đọc các tác phẩm của Tủ Sách Việt Thường website www.tusachvietthuong.org).
Trung Quốc khai thác triệt đkhuynh hướng tìm nguồn gốc văn hóa Việt Nam bên Tàu.
Là người Việt Nam chúng ta cần thận trọng trong mặt trận văn hóa hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam. Cuộc chiến đang diễn ra vô cùng khốc liệt vì gián điệp văn hóa Tàu có mặt khắp nơi và khó phân biệt địch và bạn. Hơn nữa CSVN lại tạo môi trường thuận lợi cho Tàu Cộng thực hiện mọi kế hoạch trong trận chiến này.
Về mặt chiến lược, hiện nay Trung Quốc đang khai thác triệt để khuynh hướng tìm nguồn gốc văn hóa Việt Nam ở bên Tàu. Hướng đi này quan niệm rằng Khổng Tử chỉ công thức hóa và chữ nghĩa hóa văn hóa của đại tộc Bách Việt sống trên đất Tàu. Như vậy, nếu bỏ Nho, tức Tứ Thư Ngũ Kinh thì chúng ta chỉ tìm thấy ngọn chứ chưa đến tận gốc của văn hóa Việt, vì Nho giáo chứa đựng những hằng s ca văn minh nước ta.
Mục tiêu của các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn còn mang dấu ấn văn hóa gốc du mục với bệnh trầm kha Hội Chứng Đại Hán là tìm mọi cách Hán hóa dân tộc Việt Nam như đã Hán hóa Bách Việt sống trên đất Tàu.
Kế hoạch của họ trước hết là dùng mọi thủ đọan, mưu mẹo làm cho gii khoa bảng Việt Nam nô lệ tư tưng Nho giáo, xem văn minh, văn học Trung Quốc là siêu việt, nước lớn người đông, có mặt khắp địa cầu, để rồi tôn thờ Khổng Tử một cách quá đáng, xem như một ông thánh toàn thiện, bất khả xâm phạm. Ông Thánh đó chủ trương nhân ái nhưng thực chất là “hưng Hoa diệt Di”, là tìm cách phục hoạt chế độ phong kiến nhà Chu với sách lược bàn tay sắc (bạo lực quân sự) bọc nhung (văn hoá - thuật nhi bất tác). Mặt khác Trung Quốc đã và đang đ hàng hóa thực dụng như phụ tùng nhà bếp, bình thủy, xe đạp, v.v... qua hai hướng (buôn lậu và giá rẻ) tràn ngập từ thành phố đến thôn quê, nhà nhà đều dùng hàng hóa của Trung Quốc, bóp nghẹt các ngành sản xuất trong nước. Dần dần người Việt bị Hán hóa; Trung Quốc sẽ chiếm cả ngưi lẫn đất đai, không mất một viên đạn, bất chiến tự nhiên thành.
Cách học cái hay cái đẹp của nguời - Nhập nô xuất chủ.
Chúng ta có thể học, học mãi, học lời hay ý đẹp của người tốt lẫn người xấu, kể cả Khng Tử, người đã miệt thị chủng tộc Bách Việt là mọi rợ, người đã chủ trương diệt chủng tộc Bách Việt (hưng Hoa diệt Di).
Chng hạn, chúng ta có th thực hiện lời hay của một tên cướp đã hãm hiếp bà con mình, tra tn cha mẹ, vợ con mình, nhưng không th tôn thờ kẻ cướp đó và dạy con cháu mình phải kính phục kẻ cướp.
Ông cha ta đã dạy cách học hỏi cái hay, cái đẹp của người trong triết lý giáo dục nhân bản tâm linh qua quá trình học ăn, học nói, học gói, học mở mà nhà cách mạng Việt Nam, ông Lý Đông A đã tóm gọn trong bn chữ “Nhập nô xuất chủ”.
Chúng ta học hỏi văn hóa, văn học, triết học Trung Quốc, học chữ Hán, học nói tiếng Bắc Kinh, nhưng chúng ta học với ý thức, học cái hay, bỏ cái dở chứ không phải học để trở thành kẻ nô lệ tư tưởng Tàu, trọng Tàu, sợ Tàu và trở thành kẻ vong bản. Việt Nam và Trung Quốc là hai quc gia láng ging liên hệ lịch sử, văn hóa gắn bó, nên càng phải chú ý và đánh giá xác đáng các xu hướng cũng như ảnh hưởng của nó. Thái độ của ông cha ta trong giao lưu văn hóa “có rế thì đỡ nóng tay” hoặc “có dép, có giày thì đỡ nóng chân” hay “ăn sung nằm gốc cây sung, lấy anh thì ly nằm chung chẳng nằm”.
Xem cái hay, cái đẹp của văn hóa ngoại nhập là cái rế, giày, dép chứ không phải là bản sắc văn hóa dân tộc. Đừng để rơi vào trạng thái “buồn ngủ gặp chiếu manh” xem văn hóa Tàu (Tứ Thư Ngũ Kinh) là cái phao để nắm bắt, cho đó như là tinh hoa của tư tưởng Việt.
Vào thư viện của Anh hoặc Mỹ, v.v... chúng ta sẽ thấy sách nghiên cứu về Nho Giáo rất nhiu. Một số học giả Tây phương đã dày công nghiên cứu về Khổng Tử, họ phân tích xác đáng, đi sâu vào nhiu đim còn hơn cả các nho sĩ, các nhà khoa bảng của ta. Nhưng họ không nô lệ tư tưng Tàu, không tôn thờ Khng Tử. Họ không xem Khng Tử là ông thánh bất khả xâm phạm. Họ không xem văn học Trung Quốc là siêu việt như một số khoa bảng Việt Nam, ăn không ngồi ri, thưởng thức thơ Đường, ca ngợi Kinh Thi không đúng lúc, nhẫn tâm vô trách nhiệm, trước quốc nạn khủng khiếp của dân tộc. Nghịch lý thay!
Một số nhà khoa bảng Việt Nam lại vô tình đóng vai trò đoàn quân tiên phong của Trung Quốc trong mặt trận văn hóa giữa ta và Tàu, tiếp tay cho việc Hán hóa đầu óc dân tộc Việt Nam.
Dù Tứ Thư Ngũ Kinh là chữ nghĩa hóa tư tưng của đại tộc Bách Việt sống trên đất Tàu đi chăng nữa thì đó cũng chỉ là tư tưởng của các tộc Bách Việt sống trên đất Tàu chứ không phải của dân tộc Việt Nam. Nó đã bị “du mục hóa” từ thời nhà Chu (1122 - 225 trước Tây lịch) và bị Hán hóa, tức chồng lên một lớp sơn Hán Nho, rồi Tống Nho và, v.v...
Hơn nữa, sách vở, chữ nghĩa chỉ là cái xác chết, cặn bã của người xưa, một đống ngôn ngữ trống rng. Ngôn từ, chữ nghĩa chỉ nói về sự thật, chứ không phải là sự thật.
Như vậy, phải chăng Tứ Thư, Ngũ Kinh chcái xác chết của tư tưởng Nho giáo, nếu có.
Trở về với xóm làng và với tiếng nói tâm thức của dân tộc.
Tại sao chúng ta không trở về trực tiếp với xóm làng Việt Nam với huyền thoại và ca dao (tiếng nói tâm thức của dân tộc) để từ đó bước vào ngôi nhà tâm linh Việt, đến tận gốc của văn Hóa Việt: Thiên thủ vô ngôn của Tri đất, nơi chứa đựng những tinh hoa (những hằng số) của văn hóa Việt; một nền văn hóa hòa bình, nhân bản, dân tộc mang tính khai phóng và dung hóa trong giao lưu qua lăng kính nhân chủ và bình đẳng.
Phải chăng tr về vi cái xác chết do Khổng Tử lưu giữ lại (thuật nhi bất tác) không ích lợi gì đối với 95% ngưi dân Việt, không biết Khổng Tử là ai, không đọc đưc chữ Tàu mà còn là một cơ hội để Trung Quốc lợi dụng trong mưu đồ Hán hóa người dân Việt?
Lịch sử đã chứng minh, người Bách Việt sống trên đất Tàu (Chiết Giang, Phúc Kiến, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây) đọc Tứ Thư Ngũ Kinh suốt hơn hai ngàn năm qua cũng không phục hoạt đưc hồn dân tộc của họ, cũng không hun đúc lại được ý chí tự chủ và tinh thần độc lập của nòi giống . Họ còn hãnh diện tự cho mình là người Tàu, Hán nhân, Đường nhân.
Phải chăng hướng đi hợp tình hợp lý nhất không bị Trung Quốc lợi dụng được là đến tận gốc của văn hóa Việt, Thiên Thú Vô Ngôn của Tri Đất (Thiên Nhiên)?
Không ai cấm chúng ta học cái hay cái đẹp của cái xác chết của tư tưng trong Tứ Thư Ngũ Kinh nếu có những điều hay đẹp còn dùng được, thích hợp với tâm hồn người Việt để phong phú hóa văn hóa dân tộc. Nhưng chúng ta đă biết các nhà lãnh đạo Trung Cộng đang tìm cách phục hoạt tư tưởng Nho giáo và dùng tư tưởng của Khổng Tử như là nhạc trưởng điều hợp ban nhạc triết học Đông Tây, với tham vọng lãnh đạo thế giới về mặt tư tưởng. Đó cũng là sự gợi ý của các triết gia tại hội nghị triết học thế giới lần thứ nhất năm 1949 tại Honolulu.

Người Việt Nam chúng ta phải ý thức rõ ràng “dân tộc nào để cho văn hóa ngoại lai ngự trị thì không thể có độc lập thực sự, vì văn hóa là linh hồn của một dân tộc (Nguyễn An Ninh - Lý tưởng của thanh niên Việt Nam).

Không có nhận xét nào: