Tác
giả: Hồ Bạch Thảo
Tìm hiểu nền bang giao Trung Việt; hầu như bất cứ lúc nào
trong nước ta có biến, đều được Trung Quốc dòm ngó hết sức kỹ lưỡng. Lịch sử
thường ghi nhận những cuộc xâm lăng của Trung Quốc được khởi đầu bởi những biến
cố trong nước ta; hoặc do chính bàn tay Trung Quốc tạo ra, hoặc tự phát trong
nội bộ.
Nếu cần
phải dẫn chứng, thì nguyên nhân gần mở đầu cảnh ngàn năm đô hộ, phải kể đến
việc Sứ giả Trung Quốc có mặt trong cung đình nhà Triệu, xúi dục mẹ con Cù Thị
bán nước; việc không thành, xảy ra cuộc chính biến của Lữ Gia. Tiếp đó Hán Vũ
Đế ra lệnh mang đại quân sang xâm lăng; biến lãnh thổ Nam Việt thành 9 quận của
nhà Hán:
Lâu thuyền qua đỉnh, sư tứ khởi,
Hoặc xuất Quế Dương hạ Ly Thuỷ.
Việt Lang truy trảm Lữ Gia đầu,
Cửu quận đồng qui Hán Thiên tử. [1]
Lâu thuyền qua đỉnh, sư tứ khởi,
Hoặc xuất Quế Dương hạ Ly Thuỷ.
Việt Lang truy trảm Lữ Gia đầu,
Cửu quận đồng qui Hán Thiên tử. [1]
(Rồi Lâu
Thuyền, Qua Thuyền [2] Tướng
quân khởi binh bốn phương,
Xuất phát từ Quế Dương hướng theo dòng sông Ly Thuỷ [3] .
Tướng Việt Lang truy kích chém đầu Lữ Gia
Chín quận Nam Việt đều thu về tay nhà Hán.)
Xuất phát từ Quế Dương hướng theo dòng sông Ly Thuỷ [3] .
Tướng Việt Lang truy kích chém đầu Lữ Gia
Chín quận Nam Việt đều thu về tay nhà Hán.)
Đến giai đoạn tự chủ chưa được bao lâu, thì vua Đinh Tiên
Hoàng bị thích khách giết; trong nước sinh nội loạn bởi phe chống đối Thập đạo
Tướng quân Lê Hoàn. Tin tức đến tai triều đình Trung Quốc, viên đại thần Lư Đa
Tốn vồ lấy cơ hội, tâu với vua nhà Tống như sau:
“Nước Việt có nội loạn, đây là lúc trời muốn diệt chúng, nên bất
thình lình dùng binh tập kích như sấm sét không kịp bịt lỗ tai. Nếu dùng lời
nhân nghĩa giảng giải dông dài, thì mưu kế sẽ bị tiết lộ. Một khi chúng biết sẽ
ngăn sông phá núi để chuẩn bị, thì sự thắng bại khó mà lường được. Chi bằng
dùng Nhân Bảo làm tiên phong, chọn tướng giỏi và 3 vạn lính Kinh Hồ rong ruổi
mà tiến, thế như bẻ cành khô củi mục, đó là kế vẹn toàn không lo thất thố.” [4]
Vua Tống chuẩn y cho mang quân sang xâm lăng; nhưng nhờ
tài dụng binh của Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn tức vua Lê Đại Hành, nên quân
Tống thua to, Hầu Nhân Bảo bị giết, mưu đồ xâm lăng bị dập tắt.
Hai sự kiện nêu trên đều được ghi lại trong sử nước ta.
Nhưng cũng có lúc trong nước có biến, nhưng sử Việt không chép một dòng nào về
mối đe doạ từ bên ngoài; thì cũng do ta chưa phát hiện ra mà thôi, chứ trong
vòng bí mật không hẳn là không có.
Hãy nêu
lên một biến cố lớn, là việc vua Quang Trung đột ngột mất; sử nhà Nguyễn [Đại Nam Chính Biên liệt truyện, Nguỵ Tây] chép mối bang
giao Trung Việt lúc này đầy tình hoà bình hữu nghị, qua đoạn trích dịch dưới
đây:
“Ngày 29 tháng 9, Nguyễn Huệ chết, tiếm vị được 5 năm, mới
40 tuổi. Thái tử Quang Toản nối ngôi, tháng 10 an táng tại phía nam sông Hương,
đặt tên thuỵ là Thái Tổ Võ Hoàng đế. Sai quan Thị trung Đại học sĩ Ngô Nhậm, Hộ
bộ Tả đồng nghị Nguyễn Viết Trực, Hộ bộ Tả Thị lang Nguyễn Văn Thẩm sang nhà
Thanh báo tang; nói dối rằng Huệ di chúc sau khi mất chôn tại Bắc thành Hồ Tây
ngõ hầu được gần gũi nương dựa Thiên triều. Vua Thanh tin theo, ban cho thuỵ là
Trung Thuần và đích thân làm bài thơ điếu:
Ngoại bang lệ dĩ khiển bồi thần,
Triển cận tùng vô chí kỷ thân.
Nạp khoản tối gia lai ngọc khuyết,
Hoài nghi kham tiếu đại kim nhân.
Thu trung thượng ức y quan túc,
Tất hạ thành như phụ tử thân.
Thất tự bất năng bãi ai thuật,
Liên kỳ trung khổn xuất trung chân.
Triển cận tùng vô chí kỷ thân.
Nạp khoản tối gia lai ngọc khuyết,
Hoài nghi kham tiếu đại kim nhân.
Thu trung thượng ức y quan túc,
Tất hạ thành như phụ tử thân.
Thất tự bất năng bãi ai thuật,
Liên kỳ trung khổn xuất trung chân.
Dịch nghĩa:
Nước
ngoài có lệ sai Bồi thần,
Việc triều cận, Quốc vương chưa hề đích thân đến.
Nộp cống tốt đẹp nhất là Quốc vương đến kinh khuyết,
Đáng cười cho triều trước bị ngờ vực, nên đem người vàng đến thay.
Trong mùa thu trước nhớ Quốc vương áo mũ chỉnh túc,
Ân cần ôm gối, thân mật như cha con.
Thơ bảy chữ không nói hết lòng xót xa của Trẫm,
Thương lòng trung thành phát xuất tự đáy lòng.
Việc triều cận, Quốc vương chưa hề đích thân đến.
Nộp cống tốt đẹp nhất là Quốc vương đến kinh khuyết,
Đáng cười cho triều trước bị ngờ vực, nên đem người vàng đến thay.
Trong mùa thu trước nhớ Quốc vương áo mũ chỉnh túc,
Ân cần ôm gối, thân mật như cha con.
Thơ bảy chữ không nói hết lòng xót xa của Trẫm,
Thương lòng trung thành phát xuất tự đáy lòng.
Còn ban thêm một tượng Phật, ba ngàn lạng bạc để làm việc
tang, phái quan Án sát Quảng Tây Thành Lâm đến mộ giả tại Linh Đường thuộc
huyện Thanh Trì để đọc văn tế. Bài văn có câu:
Chúc ly nam cực hiệu trung đặc tưởng kỳ xu triều,
Thoả phách Tây Hồ một thế vô vong ư luyến khuyết.
Thoả phách Tây Hồ một thế vô vong ư luyến khuyết.
(Chúc
cho Vương ở cực nam hết lòng trung, nên đặc thưởng sang chầu
Thoả hồn phách ở Tây Hồ, chết cũng không quên lòng quyến luyến kinh khuyết)
Thoả hồn phách ở Tây Hồ, chết cũng không quên lòng quyến luyến kinh khuyết)
Bài văn
điếu được khắc vào bia đá bên tả mộ” [5]
Sử nước ta chỉ mới chép được một nửa sự thực, đó là mặt
nổi của sự việc. Còn mặt chìm thì phải đọc ngay đạo dụ của vua Càn Long gửi cho
quan Đại thần lo việc cơ mật của nhà Thanh, trong văn bản này nhà vua tiên liệu
sau khi vua Quang Trung mất, nước ta sẽ có biến, hoặc do Nguyễn Nhạc giành ngôi
của cháu, hoặc do quyền thần Ngô Văn Sở uy hiếp vua còn nhỏ tuổi; do vậy Càn
Long âm thầm bày mưu tính kế, để thừa cơ hội sang xâm lăng nước ta. Nhà vua lập
tức sai viên Tri đạo Thành Lâm sang phúng điếu với mật lệnh dò xét tình hình
nội bộ nước ta, cùng ra lệnh cho Phúc Khang An từ Nepal đến biên giới gấp; với
ý đồ chờ nước ta có biến, sẽ ra tay can thiệp:
Ngày
22 tháng Giêng năm Càn Long thứ 58 [3/4/1793]
Dụ các Quân Cơ Đại thần: Cứ lời tấu của Quách Thế Huân:
“Quốc
vương An Nam Nguyễn Quang Bình đã mất tại Nghĩa An [Nghệ An] [6] vào tháng 9 năm ngoái, Thế tử Nguyễn
Quang Toản 15 tuổi, tạm quyền quốc sự; định trong vòng tháng giêng sai Bồi thần
cung kính dâng biểu văn cùng tiến cống v.v…
Xem tờ
tấu rất lấy làm thương tiếc, Quốc vương nước này mất vào tháng 9 năm ngoái,
viên Di mục báo tin hơi chậm, chắc lúc này đã làm lễ tống táng, nên điển lệ lúc
lâm chung không kịp thi hành. Nay làm bài thơ điếu, sai viên Tri đạo Thành Lâm
đến Nghĩa An, làm lễ phần hoá [7] trước
mồ Nguyễn Quang Bình, lại lấy từ ngân khố tỉnh Quảng Tây ra 3.000 lượng bạc,
kèm một tượng Phật, cũng sai Thành Lâm mang đến tế điện và thưởng cấp để tỏ
lòng thể tuất. Con Nguyễn Quang Bình là Nguyễn Quang Toản trước đây đã được
phong Thế tử, tự nhiên đáng được làm Phiên thần; nay lệnh cho Thành Lâm truyền
chỉ phong Nguyễn Quang Toản An Nam Quốc vương. Các sắc thư, y phục cẩm bào đợi
sau khi viên Sứ thần Ngô Thời Nhiệm đến kinh đô sẽ theo lệ ban cấp, cho lệnh
mang về.
Nguyễn
Quang Bình ngưỡng vọng uy linh của Thiên triều cai trị đất An Nam. Nước này mới
lập, lòng người chưa hẳn được mười phần ổn định, huống hồ anh em không hoà mục,
Nguyễn Nhạc tại Quảng Nam, không khỏi có ý đồ dòm ngó. Còn Ngô Văn Sở tuy là
người đã từng giúp sức thời khởi sự, nhưng đã chắc gì đáng tin cậy. Nguyễn
Quang Toản tuổi còn nhỏ, nên hiện nay mọi việc trong nước giao cho Ngô Văn Sở
quản lý; sợ y nhân chủ còn nhỏ, trong nước có kẻ nghi ngờ, bèn âm mưu việc bất
trắc, hoặc làm chuyện bức hiếp chuyên quyền cũng chưa định được. Nay Trần Dụng
Phu đem chỉ dụ này hiểu thị mật cho Thành Lâm rằng sau khi đến Nghệ An, chớ
động thanh sắc, hãy bí mật dò tìm quan sát. Nếu như Ngô Văn Sở quả thực thuỷ
chung như nhất, lo việc nước cho Nguyễn Quang Toản, Trẫm đáng ưu đãi tưởng lệ;
nếu hành động có nhiều điều ngang ngược, Thành Lâm hãy dùng phương tiện trạm
dịch tâu gấp, đợi Trẫm liệu biện. Ngoài việc ban chỉ dụ riêng cho Phúc Khang An
từ Tứ Xuyên di chuyển gấp đến Việt Tây [Quảng Tây] để lo việc đàn áp bên ngoài;
hãy mang dụ này từ 600 dặm cấp tốc truyền cho Trần Dụng Phu cùng Thành Lâm, lại
dụ Quách Thế Huân để hay biết.” [8]
Cùng trong ngày chỉ dụ nêu trên được chuyển theo lối hoả
tốc cho quyền Tổng đốc Lưỡng Quảng Quách Thế Huân, Tuần vũ Quảng Tây Trần Dụng
Phu; vua Càn Long lại viết riêng một dụ khác cho Phúc Khang An, điều động viên
võ quan này từ Khuếch [hoặc Khách] Nhĩ Khách [Nepal] đến ngay Lưỡng Quảng để
chuẩn bị cho kế hoạch tại Việt Nam. Đây là một quyết định đột ngột, vì trước đó
vua Càn Long đã hứa cho Khang An được về làm việc tại kinh đô để được gần mẹ
già:
Dụ
cùng ngày 22 tháng Giêng năm Càn Long thứ 58 [3/4/1793]
“Phúc
Khang An lo liệu công việc tại Khuếch Nhĩ Khách, trải qua nhiều gian khổ, thành
tích tốt đẹp. Dự định sau khi mọi việc hoàn thành, lệnh Phúc Khang An đến kinh
đô bệ kiến, thăm mẹ, ở lại kinh đô vài tháng, rồi trở về nhiệm sở tại Lưỡng
Quảng. Lại nhân mẹ Phúc Khang An bị bệnh, nghĩ đến Phúc Khang An từ lâu khâm
sai tại cõi ngoài, không tròn đạo hiếu định tỉnh [9] . Huống mẹ y tuổi ngoài bảy mươi,
trong cung nơi Ngự tiền cũng cần người; nên lại có ý định sau khi Phúc Khang An
đến kinh đô, cho lưu lại nhậm chức, khiến được ở gần phụng dưỡng mẹ già, chứng
tỏ lòng thể tuất của Trẫm.
Nhưng ngày hôm nay xem tờ tấu của Trần Dụng Phu, được biết
Nguyễn Quang Bình bị bệnh, mất vào ngày 29 tháng 9 năm ngoái. Nguyễn Quang Bình
không hoà mục với anh em; viên Bồi thần nước này là Ngô Văn Sở quản lý việc
nước đã lâu, cũng e rằng không phải là bọn yên phận. Lòng người phản trắc, nếu
có việc xảy ra, khó mà liệu biện. Lúc này công việc tại biên ải, riêng bọn
Quách Thế Huân, Trần Dụng Phu không đủ khả năng lo liệu; cần một Đại thần đến
nơi. Nhưng người mà nhân tình nước đó chấn phục, thì không ai uy vọng lớn hơn
Phúc Khang An. Vậy cần được Phúc Khang An đến Quảng Tây, trú trát một số ngày,
mới đủ lo việc đàn áp.
Phúc
Khang An nhận được chỉ dụ này, lập tức từ tỉnh Tứ Xuyên qua Hồ Nam , đến ngay
Quảng Tây. Tỉnh này vốn là vùng quản hạt của Phúc Khang An, nếu nghe được sự
động tĩnh, thì đừng ngại trú tại đó một vài tháng, bí mật quan sát, tuỳ thời mà
liệu biện. Trước định cho Phúc Khang An đến kinh đô nhận mệnh, cũng do y nặng
tình quyến luyến kinh khuyết, ngoài việc chiêm cận, còn được gần gũi thăm hỏi
mẫu thân; mà y trải qua sự cực nhọc, Trẫm cũng rất muốn được gặp. Nhưng tình
hình như vậy, Phúc Khang An không thể không đến thẳng Lưỡng Quảng; trước mắt
Trẫm cũng không cần ban chỉ dụ trực tiếp. Còn bệnh của mẹ Phúc Khang An đã khoẻ
lại, Phúc Khang An nhận ơn sâu, hãy lấy việc công làm trọng, hân hoan đến Quảng
Tây, lo liệu công việc ổn thoả. Nay thưởng cấp đồ Ngự dụng một đôi bao sen lớn
Hồ Lô, 4 cái bao sen nhỏ, để làm rạng rỡ sự ưu đãi. Cho sao tấu triệp của Trần
Dụng Phu, chỉ dụ cho viên Tuần phủ này sai Thành Lâm đi phúng điếu, gửi cho
[Phúc Khang An] để duyệt khán.” [10]
Cò
trai đánh nhau
Ngư ông đắc lợi
Ngư ông đắc lợi
Ngư ông Phúc Khang An với đạo quân hùng mạnh đã hờm sẵn
nơi biên giới Lưỡng Quảng, nhưng trong nội bộ nhà Tây Sơn vẫn chưa có dấu hiệu
cò trai đánh nhau. Mặt khác trong nước ta lúc bấy giờ chắc cũng có người giỏi,
biết rõ bụng dạ nhà Thanh, nên không muốn cho bọn gián điệp đội lốt ngoại giao
Thành Lâm vào Huế để dò la bí mật nội bộ của ta! Xây mộ giả đất Bắc, bề ngoài
nói khéo rằng tuy mất mà vẫn quyến luyến Thiên triều; đây là đòn ngoại giao tìm
cánh ngăn cách ảnh hưởng nhà Thanh, với lời đường mật:
Ngày
4 tháng 5 năm Càn Long thứ 58 [11/6/1793]
Dụ Quân Cơ Đại thần: Từ khi Quốc vương An Nam Nguyễn Quang
Bình xưng thần qui phụ đến nay, thành tâm cải hoá, cung thuận đáng khen. Năm
trước thân đến kinh khuyết chiêm cận, yêu kính đội ơn phát ra từ dạ chí thành.
Lúc từ giã bệ rồng, ngõ lời sẽ đến chúc mừng vào năm Trẫm thượng thọ 90 tuổi;
vì thế nên được ưu thưởng nhiều lần, cho làm phên dậu đất Nam giao, sự nương
dựa mỗi ngày một nặng. Mới đây theo lời tấu của Quách Thế Huân, viên Quốc vương
lìa trần vào tháng chín năm ngoái tại Nghệ An, sai riêng Bồi thần dâng biểu đến
kinh đô báo cáo. Đã giáng chỉ thưởng cấp 3.000 lạng bạc, cùng thơ Ngự chế phúng
điếu, sai viên Án sát sứ Thành Lâm đến tế điện, truyền chỉ phong Thế tử Nguyễn
Quang Toản làm An Nam Quốc vương để chính danh định phận, yên lòng người. Hôm
qua nhận tờ tấu của Thành Lâm xưng rằng:
“Vào
ngày mồng 8 tháng 4 đến địa phương Gia Quất [Bắc Ninh] nước An Nam, Nguyễn
Quang Toản đưa văn võ Bồi thần lớn nhỏ quì đón long đình [11] . Vào ngày mồng 10 đến thành Thăng
Long, truyền chỉ phong Nguyễn Quang Toản làm An Nam Quốc vương; cả nước quan
dân, không ai là không hoan ngênh cổ vũ, đồng thanh ca tụng. Nguyễn Quang Toản
lại xưng với Thành Lâm rằng khi Nguyễn Quang Bình hấp hối, có lời trối với
Quang Toản rằng bất tất chôn tại Nghệ An, hãy đem đến Tây Hồ an táng; từ Tây Hồ
đến trấn Nam Quan, so với Nghệ An thì gần hơn cả chục trạm dịch, ngõ hầu hồn
phách linh thiêng có thể được gần cung khuyết của Thiên tử!”
Lời nói và tấm lòng hết sức tha thiết, xét đến càng thương
xót nhiều. Lúc viên Bồi thần dâng biểu [báo tang] đến kinh đô, bèn gia ơn đặc
cách để làm rạng rỡ chốn tuyền đài; Nguyễn Quang Bình được ban thuỵ Trung Thuần
cùng với bài thơ Ngự chế. Truyền cho Nguyễn Quang Toản đem thơ Ngự chế và chiếu
chỉ này khắc vào bia ngay trước mộ, để biểu dương lòng cung thuận thuỷ chung
thành khẩn quyến luyến cung khuyết, thoả vong hồn trung nghĩa, làm sáng tỏ phép
tắc điển lệ.
Thơ Ngự chế:
Qui
phiên thức lệ biệt phong thần [12] ,
Hồi thủ tần xưng cận cửu tuần.
Chúc lệnh Tây hồ dĩ thân thoả,
Thị y Bắc khuyết chí tâm thân.
Tự tư loạn mệnh đồng trị mệnh,
Nhẫn vị ngoại thần thành thế thần.
Tảo thập thất ngôn lặc uyển diễn,
Quế cương thiên tải thức trung thuần.
Hồi thủ tần xưng cận cửu tuần.
Chúc lệnh Tây hồ dĩ thân thoả,
Thị y Bắc khuyết chí tâm thân.
Tự tư loạn mệnh đồng trị mệnh,
Nhẫn vị ngoại thần thành thế thần.
Tảo thập thất ngôn lặc uyển diễn,
Quế cương thiên tải thức trung thuần.
Dịch nghĩa:
Phiên
thần trở về nước, gạt lệ từ biệt cung vua,
Quay đầu thưa rằng sẽ trở lại chiêm cận vào dịp Thiên tử thượng thọ chín mươi.
Lúc hấp hối dặn dò an táng tại Hồ Tây,
Để linh hồn được tho nguyện nương về kinh khuyết phương Bắc.
Lúc vận mệnh đảo điên, lòng không đổi giống như lúc bình an,
Bề tôi ngoài nước, nhưng thân cận như trong nước.
Chọn lời đẹp ghi thành thơ thất ngôn, khắc lên châu ngọc,
Để ngàn năm sau biết được bề tôi trung thuần. [13]
Quay đầu thưa rằng sẽ trở lại chiêm cận vào dịp Thiên tử thượng thọ chín mươi.
Lúc hấp hối dặn dò an táng tại Hồ Tây,
Để linh hồn được tho nguyện nương về kinh khuyết phương Bắc.
Lúc vận mệnh đảo điên, lòng không đổi giống như lúc bình an,
Bề tôi ngoài nước, nhưng thân cận như trong nước.
Chọn lời đẹp ghi thành thơ thất ngôn, khắc lên châu ngọc,
Để ngàn năm sau biết được bề tôi trung thuần. [13]
Vở kịch xây mộ giả tại Hồ Tây để được gần gũi Thiên triều
đã là khéo rồi, Nguyễn Quang Toản lại khéo hơn bằng cách biểu lộ niềm trân quí
thơ vua Càn Long tặng cha, đến nỗi chỉ chép lại bài thơ rồi cho đốt trước mồ,
riêng bản chính thì cho giữ lại để làm quốc bảo. Mọi việc được diễn tiến một
cách êm xuôi, khiến nhà Thanh không có cơ hội để can thiệp vào nước ta:
Ngày
5 tháng 5 năm Càn Long thứ 58 [12/6/1793]
Dụ các Quân Cơ Đại thần: Thành Lâm tấu: “Vào ngày 12 tháng
4 đến tế dụ trước phần mộ Nguyễn Quang Bình, Nguyễn Quang Toản thưa rằng:
Thân phụ được ban ân điển lớn, từ xưa đến nay hiếm ai có
được như vậy; tuy mòn gót liều thân cũng không đủ để báo đáp. Thơ Ngự chế là
quốc bảo, đáng giữ lại trong nước truyền đời, không dám đốt đi; chỉ xin sao lại
một bản để làm lễ phần hoá v.v…
Nguyễn Quang Toản tuy tuổi còn nhỏ, biết thận trọng kính
cẩn, thực đáng khen. Thành Lâm cho rằng sự cảm khích phát ra từ lòng chí thành,
nên chấp nhận lời xin; việc này cũng đúng. Riêng theo Nguyễn Quang Toản xin:
Đáng nên thân đến kinh khuyết làm lễ tạ ơn, nhưng mới được
ban tước, chưa tiện rời nước; có viên Bồi thần Ngô Đình Phụng là người thân tín
của phụ thân, sai đến kinh đô tạ ơn thay v.v…
Điều này
xét ra không cần thiết. Sau khi Nguyễn Quang Bình mất, nước này đã gửi riêng Sứ
thần[14] đến
báo, nay vẫn chưa tới kinh đô; An Nam đường sá xa xôi, lại gửi thêm Sứ thần
đến, không khỏi phiền hà mệt nhọc phải lặn lội đi về. Thành Lâm hiện được lệnh
đến kinh đô, đợi Phúc Khang đến Lưỡng Quảng cũng cần thêm ngày giờ; vậy Trần
Dụng Phu hãy thông tri cho viên Quốc vương rằng không cần phải gửi Bồi thần Ngô
Đình Phụng đến kinh đô tấu thay. Nếu như lúc chỉ dụ này đến nơi, Ngô Đình Phụng
đã đến quan ải; thì ngay trên đường đi, cho y trở về nước để tỏ lòng thể tuất.
Mới đây
lúc Nguyễn Quang Bình hấp hối, trối lại cho Nguyễn Quang Toản rằng không cần
phải đưa linh cữu về Nghệ An, hãy cho an táng tại Tây Hồ, để được gần gũi cung
khuyết của Thiên tử, tình từ thiết tha, đã giáng chỉ ban thuỵ [15] Trung Thuần cùng một bài thơ Ngự chế,
để viên Quốc vương [đương nhiệm] khắc bia tại trước mộ, biểu lộ tấm lòng thành
trước sau quyến luyến kinh khuyết. Tờ chiếu chỉ này cùng thơ Ngự chế, đợi sau
khi Sứ thần đến kinh đô báo tang, sẽ giao cho để kính cẩn mang về. Nguyễn Quang
Toản tiếp nhận xong, cũng không cần sai sứ tạ ơn, chỉ cần dâng biểu giao cho
viên Tuần phủ [Quảng Tây] chuyển tấu.
Còn
Nguyễn Quang Toản xưng rằng muốn đích thân đến kinh đô, lại cũng không cần. An Nam là nước tân
tạo, Nguyễn Quang Toản mới được phong tước, các em tuổi còn nhỏ, mọi việc cần
phải lo liệu, há lại coi thường đi xa? Cũng ra lệnh cho Trần Dụng Phu báo thêm
cho Nguyễn Quang Toản hay rằng sau năm Càn Long thứ 60, đại Hoàng đế sẽ ước
lượng tình hình, hoặc sẽ giáng chỉ cho đến kinh đô cũng chưa biết chừng. Đem dụ
này truyền từ 500 dặm cho Trần Dụng Phu, cùng báo Phúc Khang An biết. [16]
—————-
[1]Nam Việt hành, Chu Chí Tài, văn đời Tống.
[2]Lâu thuyền: Loại thuyền có hai tầng.
Qua thuyền: Một loại thuyền chiến. Lúc này Dương Bộc lãnh chức Lâu Thuyền Tướng
quân, Việt Lang Hầu lãnh chức Qua Thuyền Tướng quân.
[3]Theo Thuỷ Kinh Chú Sớ cùng tham khảo
bản đồ Trung Quốc thời Tây Hán thì các sông Tương Thuỷ, Ly Thuỷ đều phát nguyên
từ Linh Lăng, Hồ Nam .
Tương Thuỷ chảy lên phía bắc vào hồ Động Đình. Ly Thuỷ chảy ra phía đông nam
qua Quế Dương, thuộc tỉnh Hồ Nam; rồi chảy đến thành Phiên Ngung, kinh đô của
nhà Triệu, tức Quảng Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay. (Nguyễn Bá Mão, bản
dịch Thuỷ Kinh Chú Sớ, NXB Thuận Hoá, trang 518-519).
[4]An Nam Chí lược, quyển nhị, trang 60.
[5]Đại Nam Chính biên Liệt truyện, Quyển
30, trang 42b 43a.
[6]Sử nhà Nguyễn trích ở trên chép vua
Quang Trung mất tại Huế, sử nhà Thanh ghi tại Nghệ An, có lẽ triều đình Tây Sơn
không báo thực chỗ mất cho nhà Thanh biết.
[7]Phần hoá: Theo tục xưa cúng xong đốt
văn tế, thơ, vàng giấy vv.. để người cõi âm hưởng.
[8]Cao Tông Thực lục quyển 1421, trang 17-18.
[9]Định tỉnh: Do từ “Hôn định, thần tỉnh”
nghĩa là buổi tối xếp đặt chỗ ngủ để cha mẹ được yên giấc, sáng thì thăm hỏi
xem có được mạnh không.
[10]Cao Tông Thực lục quyển 1421 tờ 18-19.
[11]Long đình: Một thứ kiệu, đòn khiêng
chạm rồng, trên kiệu có cái tủ hình như cái đình để đựng sắc vua.
[12]Phong thần: Đời nhà Hán hay trồng cây
phong trong cung, nên các đời sau gọi cung vua là phong thần.
[13]Cao Tông Thực lục, quyển 1428, trang 96-97.
[14]Lúc này Sứ thần Ngô Thời Nhiệm trên
đường đến báo tang.
[15]Thuỵ: tên hiệu của người chết.
[16]Cao
Tông Thực lục, Quyển 1428, trang 97-98.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét