Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

Nhận diện và đột phá cấp bách các nguy cơ trong Đảng hiện nay

21:30' 22/12/2015

Đôi lời đề dẫn của blog Phạm Viết Đào về 2 bài viết mới trên Tạp chí Cộng sản:

Xin giới thiệu với quý một bài viết công phu của Nhị Lê -TS, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản;
Có thể coi đây là một công trình lý luận “ tiểu mini” nhưng công phu, bài bản; bài viết cho thấy tác giả tuy vẫn chưa thoát ra khỏi cái "vòng kim cô" của lối tư duy tư biện, sách vở giáo điều của “ con chim cảnh” “chốn cung đình”;
Có lẽ do bởi tác giả có điều kiện tiếp xúc hoặc được nghe tới nhiều nguồn tài liệu gốc, có điều kiện tiếp cận nhiều yếu nhân đang nắm trong tay quyền hoạch định đường lối chính sách trong bộ máy cầm quyền của Đảng, những vị nắm trong tay cái quyền “được ăn được nói, được gói mang về”…
Bài viết của Nhị Lê phần nào hé lộ những cuộc đấu đá khốc liệt, sống mái trong nội bộ bộ máy của Đảng, tác giả đã mạnh dạn lật bài, lật một số vấn đề được coi vấn nạn cốt yếu trong bộ máy cầm quyền đảng trị; Tất nhiên những thứ tự vấn nạn cái nào là chính, là cốt tử, là không căn bản thì người đọc còn phải suy ngẫm kiểm chứng, kiểm định thêm…
Có một nguy cơ rất lớn, có thật nhưng  tác giả Nhị Lê vẫn còn né tránh, chưa dám đụng bút, đưa vào trong 5 nhóm nguy cơ, cái nguy cơ này nó đụng tới cả làng Vũ Đại, đó là nguy cơ mà như xã hội đặt tên, đó là nguy cơ " hậu duệ"; (Vào công chức: “Hậu duệ, tiền tệ, quan hệ, trí tuệ”);
 nạn kéo bè kéo cánh theo đường giây "con cha cháu ông" đang hoành hành từ trung ương tới địa phương ?
Người đọc mong tác giả Nhị Lê -TS, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản hãy mở một cuộc điều tra xem trong bộ máy nhà nước có bao nhiêu người được cơ cấu, tuyển dụng, đề bạt, cất nhắc bị chi phối bởi quy trình của cái quan hệ " hậu duệ " và hệ quả của nguy cơ này ?
Đưa về blog ngoài bài của Nhị Lê, xin đưa thêm bài của TS Vũ Huy Hoàng, hiện đang là Phó Ban Tuyên giáo TW gần đây đã công bố hàng loạt bài viết mà dư luận cảm thấy xao xác như lời của cổ nhân xưa: Con chim sắp chết thì thường cất tiếng hót kêu thương; Con người sắp về hưu thì hay nói ra điều thẳng thắn…
Ông Vũ Huy Hoàng là người mạnh dạn vạch ra cái ác của đám đám quan chức Đảng, của " thể chế" đảng trị...
Blogger Phạm Viết Đào mới viết, gãi sơ sơ mà đã bị 15 tháng tù; Nếu viết như ông Vũ Huy Hoàng chắc là mọt gông!
Một nhà thơ đã từng viết: Làng tôi toàn người thẳng ngay; Chỉ ưa nói thật những ngày về hưu...

TCCS - Kinh nghiệm 85 năm lãnh đạo, trong đó có hơn 70 năm cầm quyền của Đảng ta khẳng định, một trong những bài học thành công là, luôn cảnh giác, chủ động dự báo và kiên quyết khắc phục có hiệu quả những thách thức, nguy cơ đối với cách mạng, trước nhất từ trong nội bộ Đảng. Trong bối cảnh mới hết sức phức tạp, có mặt diễn biến khôn lường, hiện nay, cùng với những vận hội mới, thời cơ mới, Đảng đứng trước những hiện trạng đáng cảnh báo, những thách thức mới.


Tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh... Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt”(1). Tới Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(2).
Và chúng ta thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” trong tình hình đáng lo ngại thách thức: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa, địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”(3).
Qua bốn năm, từ việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, phát hiện những hiện trạng nóng bỏng, với những “tầng chìm thực thể”, như C. Mác nói, tinh vi, giảo quyệt hơn, đặt ra những thách thức ngày càng cấp bách, thật sự là nguy cơ. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền...; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”.
Nhận diện những nguy cơ có thể làm băng hoại Đảng
Xuất phát từ đó, theo thời gian, nhận diện từ tổng hòa những hiện trạng, thách thức từ trong Đảng và tới toàn xã hội hiện nay, có thể khái quát nổi bật mấy loại nguy cơ chủ yếu:
1- Nguy cơ chệch hướng trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối chính trị
Kỳ thực, gần 100 năm trước, V.I. Lê-nin đã dự cảm, luôn luôn cảnh báo điều đó đối với các đảng cộng sản và công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn căn dặn, nhắc nhở và Đảng ta luôn đề phòng sự xuất hiện và diễn biến của nguy cơ, thách thức này đối với mình. Vì, sự chệch hướng trong hoạch định đường lối và sự đổ vỡ về thực thi đường lối đồng nghĩa với sự cáo chung về vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng. Bài học xương máu của một số đảng cộng sản cầm quyền ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cách đây hơn hai mươi năm đã cảnh báo hết sức nghiêm khắc điều đó.
Sự lường trước một lần nữa về vấn đề này vào tháng 1-1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, có ý nghĩa cảnh báo cực kỳ nghiêm khắc. Đó là sự tiên liệu đúng đắn trong tiến trình tổng kết nghiêm khắc về thực tiễn cầm quyền, sự phát triển sáng tạo với tinh thần tự phê bình trong xây dựng, phát triển lý luận cầm quyền và sự dũng cảm chính trị về trọng trách cầm quyền ngày càng phức tạp, khó khăn mà Đảng được lịch sử và nhân dân trao cho trọng trách lãnh đạo xã hội và đất nước.
Trước hết, tình trạng cơ hội chính trị, thực dụng chính trị về tư tưởng chính trị và hành động chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên giữ trọng trách trong bộ máy của Đảng và Nhà nước ở các cấp, nhất là một số người tham gia trên phương diện hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, đang tồn tại rất tinh vi, trên không ít lĩnh vực... Tệ “địa phương hóa”, “cục bộ hóa”, “cát cứ hóa” đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước bằng kiểu lợi dụng cái gọi là “sự đặc thù” để ban hành cái gọi là “chính sách riêng”, “chính sách đặc thù” nhằm mưu đồ phục vụ “lợi ích nhóm” và tụ lại thành những “nhóm lợi ích”... đi ngược lại đường lối chung; thậm chí để lọt lộ thông tin, bán thông tin, làm lộ bí mật quốc gia... đã diễn ra ở một số phương diện, tạo nên tình trạng vừa vô tổ chức, vô kỷ luật, vừa cát cứ, khép kín, cục bộ... trong sự thống nhất của Đảng.
Thứ hai, tình trạng bảo thủ, trì trệ, tụt hậu, đổi mới vô nguyên tắc về lý luận chính trị trong hoạch định đường lối chính trị đã và đang tồn tại trong không ít người, ở không ít nơi. Sự “đóng cửa”, “khép kín” trong tư duy, ngại đổi mới hay nói chính xác hơn, không chịu thâm nhập vào thực tiễn, đã hạn chế họ. Mặt khác, một số tự cho mình là “đúng đắn”, rồi tự bằng lòng và tự ràng buộc mình vào những định đề có sẵn nhưng đã lạc hậu, quẩn quanh trong những nhận thức đã trở thành cố hữu, lỗi thời, đã bị cuộc sống vượt qua và vô hình biến thành trở lực đối với công cuộc đổi mới. Đồng thời, một bộ phận nhân danh đổi mới, xa rời các nguyên tắc, kỷ luật của Đảng, “tự chuyển hóa” đòi xét lại đường lối chính trị của Đảng.
Thứ ba, tình trạng cố tình làm biến dạng đường lối chính trị, dưới mọi hình thức trong việc thực hiện; tệ hại hơn, họ nhân danh đổi mới, sáng tạo một cách vô nguyên tắc, cố tình làm sai lạc việc hoạch định và thực hiện đường lối chính trị cũng đang xuất hiện ở đây đó, thậm chí không ít nơi. Họ coi nhẹ những vấn đề có tính nguyên tắc, bất chấp nguyên tắc, kỷ luật, luồn lách tìm và lợi dụng những sơ hở của đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; thậm chí có người, có tổ chức cố tình làm trái ở quy mô tập thể những quy định chung đó để mưu lợi cho họ, cho phe nhóm của họ, phá rối tình hình...
2- Nguy cơ buông lỏng, làm trái những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng
Sức mạnh vô địch của Đảng là sự thống nhất của ý chí và hành động theo những nguyên tắc, những quy định và cao nhất là Điều lệ của Đảng đã được toàn thể cán bộ, đảng viên nhận thức và thực thi tuân thủ một cách tự giác, dân chủ và nghiêm minh.
Thế nhưng, ở không ít nơi, nguyên tắc tập trung dân chủ bị không ít người, tổ chức đảng lợi dụng, cắt xén hoặc trương lên thành tấm bình phong để che đậy mưu đồ cá nhân và hành động phá rối tổ chức hoặc vô hiệu hóa tổ chức, thành “con dao hai lưỡi” để mưu đoạt lấy lợi ích cho bản thân, phường hội, thậm chí nhằm “chui sâu, leo cao” vào các cơ quan lãnh đạo, quản lý. Nguy hại hơn, mượn hoặc nhân danh nguyên tắc này để đối phó với cấp trên, cô lập và vô hiệu hóa cấp dưới, biến tổ chức đảng nơi họ phụ trách thành “bầu trời riêng”, với “tôn ty riêng”... để thực thi mưu đồ cá nhân, phe nhóm, phường hội....
Mặt khác, không ít người biến việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình thành cái gọi là “vũ khí” rất màu nhiệm để tâng bốc, tán dương nhau nhưng lại nhân danh “thanh bảo kiếm chữa lành mọi vết thương”(V. I. Lê-nin) thực thi mưu đồ loại bỏ những người không cùng cánh với họ, để gây rối nội bộ Đảng nhằm “vinh thân phì gia”, “đục nước béo cò”... Kỷ luật của Đảng, Điều lệ của Đảng là pháp luật của Đảng bị không ít người ở một số tổ chức đảng biến thành “thanh kiếm phường chèo” với phe cánh họ, nhưng lại là “lưỡi gươm oan nghiệt” đối với đồng chí, nhất là những người trung thực, dũng cảm đấu tranh với các tệ nạn trong Đảng, mà họ là thủ phạm. Núp dưới chiêu bài “giữ nghiêm kỷ luật”, họ “thanh lọc đội ngũ” một cách có lợi cho họ. Thực chất, họ đã vô hiệu hóa sức mạnh của kỷ luật đảng, của Điều lệ Đảng, biến tổ chức đảng thành “vương quốc” riêng nhằm thực thi những mưu đồ cá nhân, vô hình tạo nên nạn bè phái, cát cứ ngay trong tổ chức đảng, trong cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Có thể nói, với sự hành xử như vậy, hai nguyên tắc đó của Đảng đã bị bóp méo, cắt xén; và cách họ đã tự biến mình thành những người tha hóa, làm công cụ phá hỏng đoàn thể và phá hoại tổ chức; biến những tổ chức đảng nơi họ phụ trách và sinh hoạt thành hoặc là tổ chức “hữu danh vô thực” hoặc bị tê liệt, mất sức chiến đấu.
3- Nguy cơ một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó đáng lo ngại là người đứng đầu suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, sa sút về phẩm hạnh và lối sống
Đây là một thực trạng báo động, đang gây những hậu quả khôn lường. Nhưng điều đáng lo ngại là, tình trạng đó đang lan rộng, tỏa sâu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng và leo cao, chui vào cả trong một số bộ phận của bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng. Tệ cơ hội chính trị, thực dụng chính trị, thói vô chính trị, sự băng hoại về phẩm hạnh đạo đức chính trị, về phong cách, lối sống... của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả một số cán bộ cao cấp, đang gây nhức nhối đối với toàn Đảng, gây bất bình, oán thán trong nhân dân.
Điều đáng lo ngại là, họ nhân danh Đảng, nhân danh tổ chức để làm những việc đồi bại, táng tận lương tâm: tham nhũng, ăn cắp của công, bòn rút của cải của Nhà nước, của nhân dân, mua quan bán chức, chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy tội... Tình trạng “phai Đảng”, “nhạt Đảng”,... đang lan nhiễm trong không ít cán bộ, đảng viên. Họ đối xử với nhau “lạnh tanh máu cá”, thậm chí chà xéo cả lên tình người, tình đồng chí để giành đoạt cho mình quyền lực, lợi lộc cá nhân và cho phường hội. Một số người không còn cả liêm sỉ, mà nói như người xưa: Không có liêm sỉ thì không thành người được nữa!
Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa bè phái, tệ tham nhũng - những “giặc nội xâm” - đang làm một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có không ít người giữ trọng trách “thoái Đảng”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm không ít tổ chức đảng mất sự thống nhất, mất khả năng lãnh đạo và mất sức chiến đấu. Nếu chậm trễ, không kiên quyết chủ động ngăn chặn một cách kịp thời, căn cơ và hiệu quả, cái hiểm họa “tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ” sẽ cận kề và lan rộng, như đã từng xảy ra đối với một số đảng cộng sản cầm quyền.
4- Nguy cơ xa rời cơ sở xã hội - chính trị của Đảng
Nguồn gốc làm nên sức mạnh vô địch của Đảng là sống và trưởng thành trong lòng nhân dân và dân tộc. Đó là bản chất của Đảng ta. Hơn nữa, Đảng là “đứa con nòi xuất thân từ giai cấp lao động”, “một lòng một dạ tận tụy phụng sự nhân dân”, vì “Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam”, “không thiên tư thiên vị” nên sinh thành, sống trong lòng và trưởng thành từ trong lòng nhân dân là lẽ tự nhiên, sự sống còn của Đảng suốt hơn 85 năm lịch sử của mình.
Nhưng hiện nay, không ít tổ chức đảng, đảng viên đi ngược lẽ tự nhiên ấy. Họ sống và làm việc theo kiểu “bề trên” quan liêu, cách bức với cơ sở, xa lạ với nhân dân. Họ là những “ông quan cách mạng”, “ông tướng, bà tướng”, “công thần cách mạng”, “hạng người nói suông”,... trong Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán. Một số người hành xử vô văn hóa, thậm chí đi ngược tâm tư, quyền lợi của nhân dân, gây bao nỗi ưu phiền, bức xúc, thậm chí phẫn nộ trong nhân dân, làm tổn hại thanh danh và uy tín của Đảng. Một số tổ chức đảng, dưới sự chi phối hoặc cầm đầu của một số người hoặc bị vô hiệu hóa hoặc đã đánh mất vai trò lãnh đạo của mình, không còn xứng đáng với sự tin cậy của tập thể, của nhân dân. Sự tự đánh mất vị thế, vai trò cầm quyền và tự sụp đổ của một số đảng cộng sản cầm quyền ở một số nước có nguyên nhân bắt đầu từ sự vi phạm lẽ tự nhiên xương máu này.
Ai không còn chỗ đứng trên nền nhân dân, không sống trong lòng nhân dân và dân tộc, không có trách nhiệm với nhân dân là không còn xứng đáng là “đứa con nòi của nhân dân lao động”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy, khi ấy nhất định thất bại và đổ vỡ.
5- Nguy cơ vừa cát cứ, cục bộ, vừa phân ly, phá vỡ thống nhất, mà một số người đứng đầu là sự “kết tụ” dưới đủ hình thức và cấp độ, có thể làm xuất hiện “lợi ích nhóm” và những “nhóm lợi ích” làm phân rã Đảng
Đó là con đường ngắn nhất tự thủ tiêu mình và làm tê liệt sức mạnh tập trung của toàn Đảng. Rất tiếc, không ít người, không ít tổ chức ở không ít nơi mắc phải điều tệ hại và hết sức nguy hiểm đó. Đây là hậu quả trực tiếp của các thách thức trên. Tệ “anh hùng nhất khoảnh”, “trên có chính sách, dưới có đối sách”, thói tự cho mình đồng nhất tổ chức đảng với người đứng đầu bộ máy đảng... không còn là sự hiếm hoi. Một số người sử dụng chức vụ mà Đảng trao cho họ thành vật sở hữu (!) để ban ơn, để kéo bè kéo cánh, tham nhũng tập thể, kể cả thủ đoạn tham nhũng quyền lực... Vô hình điều đó thổi phồng và làm trầm trọng hơn tệ cục bộ, bè phái, gia trưởng phong kiến, “quan cách mạng”... trong không ít tổ chức đảng, biến tổ chức đảng thành “của riêng”, thậm chí thành “đảng kiểu phong kiến”, thủ tiêu sự thống nhất trong Đảng; làm xuất hiện những “nhóm lợi ích” làm phân rã Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức một cách ngấm ngầm và nguy hiểm.
Điều hết sức đáng lo ngại là, sự phân ly về tư tưởng, lỏng lẻo, rệu rã về tổ chức, coi thường các nguyên tắc hoạt động của Đảng diễn ra trong một bộ phận đáng kể cán bộ, đảng viên và ngay trong lòng một số tổ chức đảng, ở một số nơi tới mức không thể xem thường. Thứ “đạo đức ba mặt” (trước cấp trên, với công luận, trước cấp dưới), thói hành xử “lá mặt lá trái” (trong cuộc họp đối lập với ngoài hành lang), tệ “bằng mặt nhưng không bằng lòng”; cấp dưới không phục tùng cấp trên: sự chia rẽ, thậm chí “đối trọng” giữa các khuynh hướng về tư tưởng và lợi ích làm nảy sinh các “nhóm lợi ích” và “lợi ích nhóm” hết sức nguy hiểm... đang tồn tại trong không ít cán bộ, đảng viên, kể cả đảng viên giữ trọng trách của cấp ủy; bộ phận không phục tùng toàn thể, thậm chí đi ngược lại tập thể,... đang diễn ra ở một số tổ chức đảng, đang phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, xâm hại tình đồng chí, thủ tiêu vai trò, sức mạnh chiến đấu của tổ chức đảng; đến lượt nó, tổ chức đảng bị vô hiệu hóa, bị tước bỏ, bị thủ tiêu sức mạnh của một tổ chức lãnh đạo và chiến đấu.
Quan điểm cơ bản, ba khâu đột phá và năm giải pháp chủ yếu và cấp bách phòng, chống, đẩy lùi các nguy cơ trong Đảng
Có thể nói, hiện nay với vị thế là một đảng cầm quyền, tình hình trong Đảng đã khác trước, nên không thể giải quyết vấn đề giống trước, từ quan điểm, nhận thức tới chủ trương và giải pháp đối với việc phòng ngừa, đẩy lùi những nguy cơ trong Đảng. Dù cách đây 46 năm, nhưng lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc của Người vẫn nguyên giá trị lúc này: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG... Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuầnđạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(4).
Nói cách khác, hơn lúc nào hết, cần một sự đột phá đủ mạnh để giải quyết tình hình đại cục, nhưng phải phù hợp, cụ thể và hiệu quả, không chung chung, nói nhiều làm ít, hay “bắt cóc bỏ đĩa”, “đánh trống bỏ dùi”, “gặp chăng hay chớ”...
1- Về quan điểm và phương châm 
a- Về quan điểm
Đây là vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan tới sinh mệnh, sự tồn vong của Đảng, sự mất còn của chế độ, sự thăng trầm của đất nước, sự an nguy của dân tộc, nên không thể trì hoãn giải quyết. Ở đây, từ nhận thức về đảng cầm quyềntới biện pháp xử lý các nguy cơ của một đảng cầm quyền càng không thể giống trước, trước yêu cầu đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới. Vì, tình trạng bất bình thường đòi hỏi phải được giải quyết một cách bất bình thường và chữa trị cho bằng được, nếu Đảng muốn tiếp tục cầm quyền ngang tầm trách nhiệm với dân tộc, với lịch sử.
b- Về phương châm
Chúng ta không tưởng tượng hoặc tự dựng nên nguy cơ. Đó là sự thật, ở mức độ này hay hình thức kia, và chúng nguy hiểm không thể coi thường.
Vì vậy, phương châm bao trùm là, không hoang mang, dao động nhưng cũng không nóng vội, nửa vời; kiên quyết, dứt điểm và có lộ trình phù hợp, cụ thể; thống nhất, đồng bộ, đồng thời chọn đúng khâu đột phá và giải quyết trên tầm tổng thể; phát huy dân chủ rộng rãi và bảo đảm tập trung cao độ, giữ nghiêm kỷ luật đủ mạnh ở mức cao nhất... quyết làm chuyển biến tình hình toàn cục.
2 - Về ba khâu đột phá
Thứ nhất, đột phá đổi mới tư duy về Đảng Cộng sản cầm quyền làm mở đầu và làm nền tảng căn cơ nhưng cấp bách.
Hơn lúc nào hết, phải coi đổi mới tư duy về đảng cầm quyền là khâu đột phá về lý luận làm cơ sở, nền tảng, tiêu chí và động lực cho các khâu đột phá khác. Không giải quyết những vấn đề chung, nhất định vấp ngã trên những vấn đề cụ thể. Nói cách khác, toàn bộ công việc cầm quyền trước hết của Đảng phải được tập trung thể hiện ở đường lối chính trị đúng đắn, với tinh thần cách mạng và khoa học.
Thứ hai, xây dựng và đổi mới đội ngũ cốt cán, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, đơn vị, cơ quan, tổ chức ngang tầm nhiệm vụ.
Đột phá xây dựng cho kỳ được đội ngũ người đứng đầu các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, đồng thời là đội ngũ thủ lĩnh ở các nơi này gánh vác trách nhiệm cầm quyền của Đảng là khâu đột phá then chốt. Cán bộ là gốc của công việc. Vì, đường lối chính trị phải được thực hiện trực tiếp và trước hết bởi đội ngũ người đứng đầu - thủ trưởng đồng thời là thủ lĩnh một cách xứng đáng và ngang tầm, với tư duy mới về đảng cầm quyền. Đến lượt khâu đột phá xây dựng đội ngũ người đứng đầu, phải nhằm tạo dựng kỳ được đội ngũ cốt cán chung quanh người đứng đầu - thủ trưởng - thủ lĩnh, và tổ chức bộ máy chuyên môn, chức năng... cốt yếu tạo nên sức mạnh tổng thể của đội ngũ lãnh đạo nói riêng và cán bộ của hệ thống chính trị nói chung phù hợp với đường lối chính trị.
Khi đã có đường lối chính trị đúng, việc cơ bản tiếp theo là chọn đúng người “có gan phụ trách”, vì “chọn người và thay người cũng là một vấn đề quan trọng trong việc lãnh đạo”(5) (và những người cộng sự và bộ máy chuyên môn, chức năng của họ), như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói.
Thứ ba, đột phá đổi mới về thể chế, cơ chế vận hành thể chế và siết chặt kiểm tra, giám sát trong Đảng phù hợp với pháp luật giữ vị thế thượng tôn và truyền thống quản lý xã hội.
Về thể chế, trong rất nhiều việc, cần hoàn thiện hệ thống quy chế, lấy đó làm quy phạm chỉ đạo và điều chỉnh hoạt động của bộ máy đảng (cố nhiên bao hàm cả mỗi đảng viên giữ chức vụ hay không giữ chức vụ trong Đảng) trên cơ sở Điều lệ Đảng, phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, bao quát trên tất cả mọi phương diện, mọi lĩnh vực và công việc của một đảng cầm quyền. Tổ chức bộ máy đảng các cấp gọn nhẹ, thông suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo, trong kiểm tra, giám sát công việc và con người, gắn bó với nhân dân... một cách tự nhiên và dân chủ.
Đổi mới cơ chế vận hành thể chế theo hướng đề cao quyền hạn cá nhân, bảo vệ trách nhiệm cá nhân và kiểm soát quyền hạn gắn với trách nhiệm cá nhân; mở rộng, cạnh tranh một cách dân chủ và bình đẳng gắn chặt với trách nhiệm giải trình minh bạch và kịp thời về quyền hạn và trách nhiệm. Xây dựng và thực thi văn hóa trong chính trị một cách chuẩn mực của một đảng cầm quyền.
Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng. Không một cá nhân nào, tổ chức nào của Đảng được phép đặt ra ngoài sự kiểm tra, giám sát của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của nhân dân. Siết chặt nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất và bình đẳng trong thực thi Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với mọi cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị, không có “vùng cấm”, không có “đặc quyền” hay ngoại lệ.
3- Thực thi năm giải pháp chủ yếu và cấp bách
Kinh nghiệm từ 85 năm lãnh đạo cách mạng, trong đó có 70 năm cầm quyền của Đảng, cho thấy, có lý luận cầm quyền đúng - cương lĩnh cầm quyền khoa học, phù hợp, được đông đảo nhân dân ủng hộ và thực hiện - có bộ máy cầm quyền hiệu quả và đội ngũ cán bộ cầm quyền giỏi, không việc gì không thành công. Theo hướng đó, để đột phá phòng ngừa các nguy cơ trong Đảng hiện nay, cấp bách thực thi tối thiểu năm giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đổi mới tư duy về Đảng cầm quyền, trọng tâm là những vấn đề mang tính quy luật của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong điều kiện mới là vấn đề căn bản trước hết.
Mục tiêu của công việc này là xây dựng, nâng cao chất lượng, nhất là trình độ hoạch định xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng để đường lối chính trị xứng đáng là một cương lĩnh chính trị - cương lĩnh chỉ đạo hành động xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với bối cảnh mới và điều kiện mới. Đây là vấn đề quyết định hết thảy toàn bộ thành bại công cuộc cầm quyền của Đảng, nhân tố căn bản quyết định vị thế, năng lực và trách nhiệm cầm quyền của Đảng.
Chung quanh vấn đề này, tối thiểu có 11 loại vấn đề mang tính quy luật cần giải quyết vừa cấp bách, vừa lâu dài một cách đồng bộ và cụ thể về Đảng cầm quyền, bao gồm:
1- Quy luật cầm quyền; 2- Mục tiêu cầm quyền; 3- Nguyên tắc cầm quyền; 4- Nội dung cầm quyền; 5- Phương thức cầm quyền; 6- Cơ chế cầm quyền; 7- Cơ sở cầm quyền; 8- Điều kiện cầm quyền; 9- Nguồn lực cầm quyền; 10- Môi trường cầm quyền; và 11- Nguy cơ đối với sự cầm quyền. Đây là nguồn gốc chính trị - tư tưởng thực tiễn quyết định vị thế, năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm cầm quyền của Đảng hiện nay.
Xuyên suốt và là linh hồn các vấn đề mang tính quy luật trên, xây dựng kỳ được và thực thi thống nhất và sâu sắc văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại nói chung và văn hóa cầm quyền của Đảng nói riêng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội nhập quốc tế. Sứ mệnh của văn hóa cầm quyền của Đảng là tẩy trừ cho kỳ được ba thứ kẻ thù: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa cơ hội, dưới mọi hình thức, mà cấp bách nhất là ba loại tệ nạn: nạn hối lộ, lợi ích nhóm và xa rời nhân dân đang có nguy cơ làm phân rã Đảng hiện nay; đề cao đạo đức, liêm sỉ đảng viên của Đảng. Mỗi đảng viên phải là một nhân cách văn hóa, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, của hệ thống chính trị phải là một tấm gương văn hóa.
Rường cột tổ chức và trọng trách thực thi công việc này trước hết thuộc về đội ngũ đảng viên làm công tác lãnh đạo, quản lý các cấp, các nhà khoa học trên các phương diện, lĩnh vực mang tầm chiến lược, phải được xây dựng với cơ cấu hợp lý, thực sự là tinh hoa của Đảng, của dân tộc.
Hai là, tiếp tục chỉnh đốn hệ thống tổ chức bộ máy và cán bộ; sửa đổi, hoàn thiện cơ chế vận hành bộ máy và phương thức lãnh đạo của Đảng một cách hữu hiệu.
Tuy có những tiến bộ nhất định, nhưng hệ thống tổ chức bộ máy đảng và cơ chế vận hành bộ máy đảng vẫn tồn tại không ít vướng mắc, thậm chí là trở ngại trong việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp. Tình trạng chồng chéo, cồng kềnh, cách bức, thậm chí cắt khúc khép kín, gây ách tắc, làm tổn hại mối liên hệ hữu cơ giữa các tổ chức đảng với nhau, với chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội và với nhân dân diễn ra ở không ít nơi; bộ máy nặng nề, tình trạng “đông mà không mạnh”, “chín người mười ý”... diễn ra trên không ít lĩnh vực của đời sống trong Đảng và xã hội.
Để làm “tan những cục nghẽn mạch đau đớn” ấy, về phương châm, phải bảo đảm sự liên thông mang tính chỉnh thể, trước hết của bộ máy tổ chức và cán bộ của Đảng, của hệ thống chính trị, mà mối quan hệ cơ bản nhất là giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân:
Trước hết, thu hút vào bộ máy đảng những nhân tố ưu tú nhất, tinh hoa nhất và đãi ngộ, bảo vệ họ một cách xứng đáng. Tiếp tục rà soát, kiên quyết cắt bỏ những những khâu trung gian; sáp nhập những bộ phận trùng chéo trong bộ máy, giữa bộ máy đảng và bộ máy đảng và bộ máy nhà nước theo hướng Đảng hóa thân một cách khoa học, phù hợp và thận trọng.
Thứ hai, trong việc cấu trúc lại bộ máy của Đảng, kiên quyết cắt bỏ những bộ phận ít tác dụng hoặc cùng làm chức năng, nhiệm vụ với bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; tiếp tục đổi mới chức năng, nhiệm vụ của các cấp ủy, Ban Cán sự đảng, Đảng đoàn một cách phù hợp với tình hình mới; nhất thể hóa một số chức danh đứng đầu cơ quan đảng và nhà nước theo hướng trao quyền đồng thời kiểm soát quyền, theo trách nhiệm đối với người đứng đầu và tập thể cốt cán chung quanh người đứng đầu kết hợp với phân quyền hợp lý và minh bạch hóa quyền, trách nhiệm đối với các bộ máy thực thi và tham mưu... bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, dân chủ và thông suốt đối với hệ thống chính trị, trước hết là giữa các tổ chức trong hệ thống của Đảng.
Thứ ba, kiên quyết chỉnh đốn và đổi mới đội ngũ cán bộ, rường cột là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (thông qua thi tuyển, tranh tuyển, tiến tuyển, ứng tuyển, bổ tuyển, bầu tuyển, cử tuyển và người đứng đầu chọn tuyển... một cách minh bạch, trách nhiệm và dân chủ) sao cho thật đồng bộ, tinh hoa, gọn nhẹ và trong sạch; hết sức coi trọng đội ngũ chuyên gia, nhất là ở những lĩnh vực then chốt. Điều nhấn mạnh là, trong việc kiến tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, luôn thấu triệt phương châm sử dụng nhân tài: “tài không đợi tuổi”, “tài không kể tuổi” và “tài không nệ tuổi”, dỡ bỏ mọi khuôn sáo cơ học cứng nhắc về vấn đề này; đồng thời, ngăn chặn thứ tệ nạn “công tác cán bộ trong hội trường là chiến trường, ngoài hội trường là thị trường”, như dư luận cảnh báo, nhằm kiện toàn kỳ được đội ngũ gồm đa thế hệ, thực sự tinh nhuệ, đồng bộ, hiệu quả và mang tầm chiến lược. Định kỳ và không định kỳ thực thi khảo thí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhằm sàng lọc, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ... theo công việc, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. Việc thành bại của sự nghiệp đổi mới phụ thuộc quyết định một phần căn bản vào phương lược xử lý vấn đề này.
Trong việc đổi mới cơ chế vận hành bộ máy đảng, cần thiết tiếp tục pháp chế hóa hoạt động, đổi mới phương thức và phong cách cầm quyền thật sự dân chủ từ Trung ương tới cơ sở, từ cấp ủy cao nhất tới từng chi ủy một cách thống nhất, phù hợp với các loại hình tổ chức đảng, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm không ngừng liên thông từ trong Đảng tới ngoài xã hội, gắn bó chặt chẽ với nhân dân theo mục tiêu Đảng lãnh đạo để nhân dân là chủ và làm chủ thật sự, vì hạnh phúc tối cao của nhân dân. Dành mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tổ chức đảng ở cơ sở theo phương châm: Tất cả hướng về cơ sở, vì cơ sở, cho cơ sở và phụng sự nhân dân là thước đo về phẩm chất chính trị, phẩm hạnh đạo đức và sự cống hiến của mọi cán bộ, đảng viên; lấy đó làm bổn phận, đề cao danh dự và lương tâm của mỗi người trong bộ máy chỉnh thể của Đảng nói riêng, của hệ thống chính trị nói chung nhằm phát triển vững chắc cơ sở xã hội - chính trị cầm quyền của Đảng.
Ba là, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Không thể để bất cứ cán bộ, đảng viên nào nằm ngoài sự kiểm tra của tổ chức, sự giám sát của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, ở bất cứ đâu, trên bất cứ phương diện hoạt động, trên lĩnh vực công tác và địa bàn sinh sống nào... Phát huy dân chủ một cách đúng hướng và thật sự rộng rãi là điều tối cần thiết, nếu không nói là nhân tố quyết định thành công.
Thiết lập định chế xử lý kịp thời cho tất cả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, của bộ máy đảng, của nhân dân đối với mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên. Cùng với việc đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức, các cấp ủy, các tổ chức đảng hết sức chú trọng tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân, sự phát hiện của công luận về cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên thuộc quyền quản lý của mình một cách toàn diện, theo hướng chặt chẽ, minh bạch. Dựa hẳn vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Đổi mới chế độ sinh hoạt đảng, cơ chế kiểm tra, giám sát đảng viên, nhất là cơ chế bảo đảm và mở rộng dân chủ trong tự phê bình và phê bình, trong kiểm tra, giám sát chặt chẽ đảng viên ngay từ chi bộ, từ cơ sở, nhằm trước hết “tống cổ” “những ông quan cách mạng”, những “ông tướng, bà tướng”... trong Đảng ra khỏi Đảng, như V. I. Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh nói. Gắn chặt sinh hoạt của tổ chức đảng với sinh hoạt các đoàn thể, sống trong lòng nhân dân ở cơ sở nhằm không để lọt sự giám sát đảng viên - với tư cách là công dân - của nhân dân ngay tại nơi cư trú. Vì, tai mắt nhân dân là tinh tường và thấu suốt nhất. Như thế mới giữ được ổn định từ trong nội bộ Đảng, xây dựng môi trường chính trị - pháp lý - xã hội lành mạnh bảo đảm vững chắc cho mọi sự phát triển một cách dân chủ, tập trung và vững chắc của Đảng, ngay từ cơ sở xã hội - chính trị. Vì, mất niềm tin từ trong Đảng chỉ là mất từ nội bộ, mất từ điều chủ yếu đã nguy hiểm nhưng nhân dân ngoảnh mặt và mất niềm tin trong nhân dân là mất cả nền tảng xã hội - chính trị và có nguy cơ mất hết.
Bốn là, dân chủ hóa việc thực hiện kỷ cương, siết chặt kỷ luật của Đảng, đồng thời thực hiện nghiêm pháp luật của Nhà nước.
Không có ngoại lệ cho bất cứ ai trong việc chấp hành và thực thi kỷ luật của Đảng, cơ bản trước hết là Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước. Càng không thể chấp nhận tệ “khoanh vùng kỷ luật, pháp luật”, tình trạng “nhẹ đối với trên, nặng dành cho dưới” ở bất cứ cấp nào. Điều lệ Đảng, kỷ luật của Đảng chỉ có một. Theo đó, sự thực thi một cách dân chủ nhưng phải thống nhất, tập trung và kiên quyết, không có ngoại lệ hay sự miễn trừ nào, đối với bất tổ chức nào và bất cứ ai.
Đó là nguyên tắc.
Định chế, siết chặt và nâng cao chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu bộ máy ở các cấp ủy gắn chặt với chế độ tập thể chịu trách nhiệm, trong việc thực thi đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ Đảng và bảo vệ kỷ luật, kỷ cương xã hội. Đồng thời, khen thưởng một cách kịp thời và thỏa đáng cho những tổ chức, cá nhân làm tốt công việc này; và ngược lại, kỷ luật thật nghiêm những tổ chức, cá nhân vi phạm Điều lệ Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, dù là ai, là tổ chức nào. Kỷ luật nghiêm khắc và kịp thời những ai gây mất đoàn kết nội bộ, kéo bè kéo cánh trong Đảng. Cấp ủy viên càng cao, cán bộ giữ trọng trách càng lớn càng phải gương mẫu, nghiêm cẩn, càng phải đề cao và giữ gìn liêm sỉ, nhân cách văn hóa... trước cấp dưới, trước toàn Đảng và toàn dân.
Chỉnh đốn đội ngũ những người làm công tác kiểm tra, thanh tra các cấp theo hướng tinh hoa, trong sạch, trung thành, nghiêm cách và thạo việc. Đối đãi xứng đáng với họ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dò: Sử dụng và trọng đãi sao cho xứng đáng!
Bài học lịch sử xương máu cho thấy: Thưởng phạt không kịp thời và phân minh, tất sẽ rối loạn!
Năm là, tổng rà soát, phân loại, nâng cao chất lượng hệ thống tổ chức đảng, trước hết là tổ chức cơ sở đảng và toàn thể đội ngũ đảng viên là giải pháp căn cơ quyết định nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Chọn thời điểm thích hợp, tiến hành cuộc tổng kiểm kê, rà soát, phân loại một cách hệ thống, toàn diện, đúng thực chất đội ngũ đảng viên và tổng thể hệ thống tổ chức cơ sở đảng ở tất cả các cấp trong toàn Đảng. Hiện nay, toàn Đảng có gần 4 triệu đảng viên sinh hoạt ở hơn 53.300 tổ chức cơ sở đảng, trong đó 11.118 tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường... Tình trạng không ít tổ chức cơ sở đảng “trong mà không sạch”, vững mạnh chỉ là hình thức, “đảng viên tuy đông mà không mạnh”... đang báo động. Không nắm đúng tình hình sẽ không có giải pháp xử lý phù hợp và hiệu quả. Trước đây, chúng ta đã rất cố gắng làm, nhưng chưa triệt để, thậm chí không ít cấp, không ít nơi “đánh trống bỏ dùi”, “gặp chăng hay chớ”, “đầu voi đuôi chuột”... nên sự đánh giá, phân loại không chính xác, thậm chí có mặt, có nơi còn làm cho tình hình phức tạp thêm. Phải cần kíp khắc phục tình trạng đó.
Phải thật sự coi trọng phương châm phù hợp và hiệu quả, trên cơ sở phân loại đúng tổ chức đảng và đảng viên, tiếp tục tìm tòi các giải pháp kiện toàn phù hợp với từng loại hình tổ chức đảng, tiếp tục cụ thể hóa việc thực hiện tiêu chuẩn và phân loại, sàng lọc đội ngũ đảng viên gắn chặt với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi đảng viên và toàn Đảng, nhằm làm trong sạch mỗi tổ chức đảng và toàn Đảng. Bổ sung lực lượng mới, làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, trước hết và tập trung là đội ngũ đảng viên làm công tác lãnh đạo, quản lý các cấp là quy luật phát triển của Đảng. Bình quân mỗi nhiệm kỳ Đại hội (từ VIII tới X), đội ngũ đảng viên được bổ sung hơn 20 vạn người, nâng tổng số đảng viên của Đảng hiện nay lên gần 4 triệu người. Đó là điều ghi nhận. Nhưng sắp tới, quyết không câu nệ và chạy theo số lượng trong phát triển Đảng. Cùng với việc tiếp tục kết nạp những người đủ tiêu chuẩn vào Đảng theo hướng trẻ hóa, trí thức hóa, kiên quyết tiếp tục cuộc tự chỉnh đốn từ mỗi đảng viên nhằm làm trong sạch Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Đồng thời, đặc biệt chú trọng lựa chọn phương án tốt nhất nhằm cơ cấu lại mô hình các tổ chức đảng phù hợp với tổ chức hành chính, mô hình các tập đoàn, nhất là các tập đoàn, doanh nghiệp chủ chốt... gắn chặt với việc phát triển Đảng. Tuyển lựa, xây dựng đội ngũ đảng viên có chất lượng cao làm công tác hoạch định chính sách ở tầm chiến lược tại các cơ quan tham mưu, nhất là các lĩnh vực then chốt, trọng yếu của quốc gia. Qua sàng lọc, việc cơ cấu lại phải bảo đảm sự cân đối đội ngũ đảng viên đủ mạnh ở các vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo, ở vùng biên giới và hải đảo, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế - xã hội; vùng trọng điểm về an ninh - quốc phòng, các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... trên cơ sở xây dựng, củng cố, kiện toàn mô hình các tổ chức đảng một cách đồng bộ và phù hợp.
Phải làm một cách kiên quyết, toàn diện và cơ bản vấn đề có tính nền tảng này.
Cải cách chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, theo hướng kiên quyết phải bỏ hẳn lối học theo từ chương, hết sức coi trọng học theo từ hành, quan trọng nhất là rèn luyện kỹ năng xây dựng tầm nhìn chính trị xa rộng và khả năng hoạch định quyết sách chính trị kịp thời, sáng tạo, đúng đắn; thành thục kỹ năng xử lý công việc cầm quyền; tư cách một người làm chính trị,... phù hợp với từng loại cán bộ, trên từng phương diện cầm quyền của Đảng. Trang bị kiến thức toàn diện, phù hợp, thiết thực và cụ thể cho đội ngũ đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, không chung chung, chồng chéo, cào bằng và không thiết thực, chấm dứt tình trạng “tiền bổ hậu học”, “học bù”, “học... chạy”, thậm chí cả sự “học... mượn”; chỉ dạy những gì mà công việc của họ cần phải có trong công việc cầm quyền./.
-------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 65 - 66
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 172 - 173
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22
4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 621 - 622
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 325 


Nhị LêTS, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản(http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2015/36787/Nhan-dien-va-dot-pha-cap-bach-cac-nguy-co-trong-Dang.aspx )

Tham vọng quyền lực và sự tha hóa
15:2' 15/9/2015


TCCS - Lịch sử thế giới đã chứng minh mỗi quốc gia chỉ có thể thành công khi việc trao quyền lực được thực hiện một cách đúng đắn, bảo đảm mọi quyền lực thực sự là của nhân dân và có cơ chế kiểm soát để người được trao quyền không bị thoái hóa, biến chất. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, một quốc gia muốn thành công cần phải có phương thức lãnh đạo trao quyền cho những người có đạo đức, có tài năng và cần tập trung kiểm soát quyền lực, bổ sung các cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi trong đảng và trong xã hội.



Trong buổi bình minh của nhân loại, khi con người còn hoang sơ, cuộc sống còn phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, người ta đã nghĩ và tin rằng, quyền lực thuộc về tự nhiên, do các thần linh nắm giữ. Sau đó, nhờ trình độ nhận thức tăng lên, con người đã dần dần nhận ra và phân biệt được sức mạnh của tự nhiên và sức mạnh của mình trong chế ngự tự nhiên và quản lý xã hội. Từ đó quyền lực bắt đầu xuất hiện.

Quyền lực, khởi nguyên là của nhân dân, của cộng đồng mà không phải cá nhân ai bỗng nhiên có được. Khi mọi người tự nguyện đồng lòng tôn vinh ai đó là thủ lĩnh, là người phụ trách để thay mặt họ xử lý công việc chung, thì đồng thời cũng là trao quyền lực cho người ấy. Bắt đầu từ đó, người thủ lĩnh, người phụ trách có quyền lực. Về bản chất thì quyền lực không phải của họ mà họ được nhân dân trao quyền, ủy quyền để sử dụng cho mục đích chung.
Khi quyền lực được trao cho người có nhân cách tốt thì nó được sử dụng đúng mục đích, bảo vệ và đem lại lợi ích cho cộng đồng. Người xưa có câu: “Đức trọng, quyền cao”. Câu ấy có thể hiểu là dựa trên cơ sở của đạo đức, nhân cách mà trao quyền lực. Người có đạo đức là mười thì có thể trao quyền lực đến bảy, tám, tức là trao quyền lực ít hơn, càng không trao vượt quá. Người có đạo đức ít, thấp mà trao quyền lực nhiều, cao thì vô cùng nguy hiểm, giống như “gửi trứng cho ác”, sai lầm, tai họa là nhất định không tránh khỏi. Theo đó, người có chức quyền càng lớn thì đạo đức, nhân cách phải càng lớn hơn. Không biết từ bao giờ, câu “Đức trọng, quyền cao” lại bị người ta nói chệch sang là “Chức trọng, quyền cao”, tức là trọng chức tước chứ không phải trọng nhân cách.
Khi quyền lực trao cho người không đủ nhân cách, thì nó trở thành công cụ phục vụ cho lợi ích cá nhân, “lợi ích phe nhóm”, thậm chí là công cụ để làm việc ác. Trong lịch sử thế giới và Việt Nam đã có nhiều trường hợp nhân dân trao quyền và bị mất quyền, trở thành đối tượng cho quyền lực cai trị. Như vậy, quyền lực có thể đem lại công bằng, hạnh phúc và cũng có thể đem lại tai họa, đau khổ cho con người. Điều đó phụ thuộc vào việc quyền lực được trao vào tay ai.
Trong thực tế đời sống xã hội có nhiều trường hợp quyền lực của một cộng đồng đã bị người khác (hoặc một nhóm người) dùng thủ đoạn tước đoạt, tranh cướp mất. Quyền lực vốn là của nhân dân, nhưng trong chế độ chiếm hữu nô lệ, các chủ nô đã chiếm giữ và sử dụng nó để cai trị xã hội, biến nhân dân (vốn là chủ nhân của quyền lực) thành những người bị mất quyền, phải làm nô lệ. Trong chế độ phong kiến, quyền lực của nhân dân rơi vào tay vua và tập đoàn phong kiến, còn nhân dân nói chung không có quyền, ngoài một số quyền ít ỏi nào đó do nhà vua ban cho; ngay cả đến quyền sống cũng không có, “ý vua là ý trời”, vua đại diện cho pháp luật, muốn giết ai thì giết, thậm chí giết luôn cả dòng họ, cả mấy đời (tru di tam tộc, tru di cửu tộc) của người đó. Thời kỳ đầu của chế độ tư bản chủ nghĩa, quyền lực do giai cấp tư sản, nhất là giới tài phiệt chi phối, chiếm giữ và sử dụng. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tiến bộ rất nhiều theo hướng dân chủ, tuy vậy, nhìn chung, giới tài phiệt ở các nước vẫn còn chi phối đáng kể quyền lực. Dân chủ là một vấn đề khách quan, tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, nhất là trình độ dân trí, quan trí và sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
Quyền lực luôn có mặt trái là làm tha hóa những người nắm giữ và sử dụng quyền lực nếu như họ không đủ nhân cách. Với những người như vậy, nếu quyền lực mà họ nắm giữ càng lớn thì nguy cơ tha hóa của họ càng nhiều. Một người khi giữ chức vụ thấp hơn thì nguy cơ tha hóa ít hơn. Mặc dù vậy, nói chung phần lớn quan chức đều tham vọng có nhiều quyền lực. Không có gì hấp dẫn, cám dỗ bằng quyền lực. Nó là “ma túy” gây nghiện, là “ma quỷ” xui khiến. Khi có quyền lực là có thể có gần như tất cả, nếu muốn. Vì vậy, quyền lực hấp dẫn bằng các thứ hấp dẫn khác cộng lại. Người ta đam mê nó, suốt ngày nghĩ về nó, dùng mọi thủ đoạn sống chết để giành và giữ lấy nó, dù phải mất nhân cách, dù phải làm việc ác. Có quyền lực rồi thì muốn có quyền lực lớn hơn, lớn rồi vẫn chưa đủ lại muốn lớn hơn nữa. Cứ thế, gần như không có điểm dừng, thậm chí không cần biết có nhiều quyền lực để làm gì. Bản thân việc ấy đã là biểu hiện của sự tha hóa. Quyền lực làm tha hóa con người một cách nhanh nhất. Không ít người chỉ cần sau một cuộc bỏ phiếu hoặc sau một quyết định phong chức, họ có thể bỗng nhiên khác hẳn, họ bắt tay theo kiểu khác, chào hỏi kiểu khác, dáng đi bệ vệ hơn, nói năng ra oai hơn...
Quyền lực không chỉ làm tha hóa mấy con người cụ thể, mặc dù đúng là bắt đầu từ đó, mà còn làm tha hóa cả một chế độ, một vương triều. Nhìn lại các triều đại phong kiến Việt Nam, hầu hết, lúc đầu được nhân dân ủng hộ lên nắm quyền, làm được nhiều việc lớn cho đất nước, dân tộc nhưng sau đó thì bị tha hóa bởi quyền lực, từ tha hóa ở một số người đến một bộ phận rồi thành việc phổ biến của một vương triều, rồi sụp đổ, vương triều khác lên thay, sau một thời gian lịch sử lặp lại y như vậy. Nhà Ngô, nhà Đinh, Tiền Lê có công lớn nhưng mỗi triều đại chỉ tồn tại trong khoảng 15 - 30 năm. Nhà Lý, nhà Trần nhiều lần đánh thắng quân Tống và quân Nguyên nhờ biết “lấy dân làm gốc” mà chiến thắng, cầm quyền được lâu nhất, trên dưới 200 năm mỗi triều đại, dù vậy nhưng cuối cùng cũng do bị tha hóa mà kết thúc. Nhà Hồ tồn tại quá ngắn, mặc dù có một số tư tưởng và chủ trương cải cách nhưng ngay từ khi mới lên đã không được dân chúng đồng tình, mâu thuẫn quyền lực trong giới quý tộc và mất nước vào tay ngoại xâm. Nhà Hậu Lê (Lê sơ) mặc dù lúc đầu được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ, đứng lên làm khởi nghĩa Lam Sơn, thắng giặc Minh hung bạo, nhưng khi lên cầm quyền rồi lại tha hóa, sát hại các trung thần vì họ can ngăn những việc làm sai trái và sợ họ chi phối quyền lực. Nguyễn Trãi cũng bị mưu hại trong giai đoạn này. Nhờ có minh quân mà nhà Hậu Lê gượng lại được một thời gian gần trăm năm, nhưng cuối cùng cũng tha hóa. Nhà Mạc cũng vậy, chỉ tồn tại khoảng 65 năm. Tiếp theo là thời kỳ vừa có vua, vừa có chúa, chúa giành nắm hết quyền lực, nhiều khi vua chỉ là hình thức cho có vì, các chúa cũng tranh giành nhau quyền lực, đến mức phải cát cứ vùng này, vùng kia, chia cắt đất nước ra để mỗi bên cai trị một vùng. Triều Tây Sơn với chiến công oanh liệt, lẫy lừng là thế, vậy mà sau khi Quang Trung mất thì tha hóa, tham nhũng và sụp đổ, tồn tại chỉ có 24 năm. Phần lớn các triều đại ấy đã thoái hóa ngay cuối đời vua thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, chứ không lâu, ngoại trừ một ít trường hợp. Lâu nay lịch sử nước ta đã ghi lại khá rõ các chiến công lừng lẫy của cha ông, nhưng lịch sử chưa viết kỹ về thời kỳ suy thoái, sự tha hóa quyền lực và nhất là nguyên nhân của nó. Đây rất có thể là một khiếm khuyết trong viết sử. Chính vì vậy mà không rút được kinh nghiệm đầy đủ để phòng ngừa, nên tha hóa quyền lực cứ lặp đi lặp lại.
Liên Xô trước đây cũng vậy, thời kỳ đầu thực hiện khá tốt tư tưởng nhà nước của dân, quyền lực về tay các xô-viết là cơ quan thật sự đại diện cho đại đa số nhân dân, làm việc vì nhân dân nên đã lập nên nhiều công tích lớn lao, vĩ đại, đánh thắng 14 nước đế quốc đến bao vây, bảo vệ được chính quyền nhân dân non trẻ, chiến thắng trong Đại chiến thế giới thứ 2, cứu nhân loại khỏi thảm họa phát-xít, thực hiện thành công công nghiệp hóa ở một đất nước rộng lớn nhất thế giới trong thời gian ngắn, đưa một nước chủ yếu còn nông nghiệp, thủ công lên thành một nước công nghiệp hàng đầu thế giới, một cường quốc, dẫn đầu nhiều lĩnh vực; vậy mà sau đó không lâu giới lãnh đạo đất nước bị tha hóa về quyền lực, về đạo đức, bảo thủ và giáo điều, không chịu đổi mới, ai nói khác thì bị quy chụp là “xét lại”, là “muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”... và cuối cùng thì Liên bang Xô-viết bị sụp đổ đến mức khó hiểu nổi. Trước đây có nhiều lần giải thích rằng, Liên Xô đổ là do các thế lực thù địch phá bằng thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Địch thì lúc nào chẳng phá, do nó phá nên mới gọi là địch, mà phá sao bằng trước đó, khi 14 nước đế quốc đến bao vây Nhà nước Xô-viết còn non trẻ, khi trong Đại chiến thế giới thứ 2 quân đội phát-xít tập trung toàn lực tấn công Liên Xô làm chết hàng chục triệu người. Liên Xô sụp đổ chính là “tự đổ”, do suy thoái, tha hóa mà đổ. Liên Xô đã tự đánh gục chính mình.
Sự tha hóa về quyền lực có thể dẫn đến cha con, anh em, chồng vợ giết nhau, người ta giết cả vua, gây ra những cuộc chiến tranh mất bao nhiêu sinh mạng để tranh giành quyền lực, thậm chí người ta bán rẻ Tổ quốc và đem dân tộc làm nô lệ cho ngoại bang để đổi lấy ngai vàng.
Tất nhiên trong xã hội thời nào cũng có nhiều người tốt, nhiều nhân cách đáng trọng. Đối với họ, quyền lực được giao là để phụng sự nhân dân, dùng để bảo vệ dân, đất nước và bảo vệ lẽ phải, đạo nghĩa, chống gian trừ tà. Họ luôn sẵn sàng trao trả quyền lực trở lại cho nhân dân khi đủ điều kiện. Đã có những ông quan thanh liêm treo ấn từ quan vì xét thấy mình không còn đủ sức gánh vác chuyện sơn hà hoặc là không muốn có lỗi với dân vì không ngăn cản nổi những điều ngang trái. Đã có những ông vua từ bỏ ngai vàng, trao quyền lực cho lớp người trẻ, kể cả vào chùa để thúc đẩy các công việc thánh thiện cho đời và cho muôn dân.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, giành lại được một đất nước đã mất, người có công lớn nhất lãnh đạo cuộc cánh mạng là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng lúc đầu Người kiên quyết từ chối làm Chủ tịch nước, không muốn công danh quyền lực. Chỉ khi tập thể phân tích đây là trách nhiệm trước quốc dân đồng bào, là gánh vác trọng trách và khó khăn, Người mới nhận lãnh trách nhiệm, phát biểu trước đồng bào sẽ làm hết sức mình để phụng sự nhân dân và mong nhanh có người thay thế để được về vui sống với điền viên, giản dị và thanh bạch. Chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng cũng là một con người như vậy. Khi đang ở ẩn trong vườn mít ở miền tây tỉnh Quảng Nam, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra làm Phó Chủ tịch nước, rồi làm Quyền Chủ tịch nước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp, ông không cần mong vinh hoa phú quý, chỉ đem toàn bộ tâm lực phục vụ nhân dân. Đó là những con người có nhân cách lớn, quyền lực không đe dọa được và cũng không cám dỗ được. Thời gian vừa qua, ở nơi này nơi khác, thỉnh thoảng có những đồng chí bí thư thành ủy, thường vụ tỉnh ủy đã tự nguyện chủ động từ chức sớm, khi chưa hết tuổi và chưa hết nhiệm kỳ, để những vị trí lãnh đạo cho các đồng chí trẻ hơn... Tất cả những con người ấy đều đáng trân trọng, không được “vơ đũa cả nắm” đối với những người có quyền lực được trao.
Ngược lại, trong xã hội, ở chốn quan trường, không ít người đầy tham vọng quyền lực. Khi quyền lực được gắn với chữ “tham”, lòng tham, thì đó chính là động cơ, nguyên nhân và biểu hiện của tha hóa quyền lực. Không thể hy vọng và tin tưởng gì ở họ, ngược lại phải hết sức cảnh giác, đề phòng bị lừa phỉnh, phủ dụ, mị dân, đừng “gửi trứng cho ác”, đừng đem sự nghiệp của dân, của nước trao vào tay họ.
Mặt khác, quyền lực không thể trao cho ai mà không cần kiểm soát. Nó là con dao hai lưỡi. Nó có thể biến người sử dụng nó từ một người chưa xấu trở thành người xấu, biến người sử dụng nó thành nô lệ cho nó. Mấy chục năm sau khi thống nhất đất nước, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng. Nội dung các văn bản ấy nhìn chung đều đúng, không sai, việc tổ chức thực hiện cũng tích cực, thậm chí có lúc vất vả nữa, nhưng tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “mua quan bán chức”,... gọi chung là thoái hóa, không dừng lại mà còn tăng lên, lan rộng hơn, gây nhức nhối hơn, làm cho lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước tiếp tục giảm sút đến mức báo động. Vì sao vậy? Chắc chắn không phải việc chống các tiêu cực ấy là ta chủ trương giả vờ, không chống thật; mà là chống chưa được, chưa hiệu quả. Vậy còn thiếu cái gì? Có hai vấn đề còn thiếu, coi như chưa làm, mà nếu không làm thì không khắc phục được tình trạng trên và có thể nó sẽ còn tiếp tục trở nên xấu hơn, không tránh được. Đó là tập trung kiểm soát quyền lực và bổ sung mạnh các cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội.
Quyền lực, như đã nói, luôn có mặt trái là làm tha hóa những người nắm giữ và sử dụng nó mà không đủ nhân cách. Nó như con dao hai lưỡi, con ngựa bất kham, luôn lồng lên quật ngã những người cưỡi nó, nếu họ không đủ nhân cách, bản lĩnh, năng lực cầm cương. Nhất thiết phải kiểm soát quyền lực, không thể chủ quan, lơ là, không thể đùa với lưỡi dao nhọn. Đã có rất nhiều bài học thực tiễn, thực tế đã chứng minh điều đó; phải bàn kỹ và có quyết tâm chính trị để thực hiện. Đảng ta phải tập trung cao, tích cực lãnh đạo công việc này. Đây là công việc quan trọng vào bậc nhất, trong đó có các việc, như cơ cấu và phân bổ lại chức năng, quyền hạn của các cơ quan nhà nước theo hướng kiểm soát và điều chỉnh lẫn nhau (để Nhà nước thật sự là một cơ thể thống nhất và tự kiểm soát, tự điều chỉnh được mình, có sức đề kháng cao với căn bệnh thoái hóa quyền lực, có khả năng sửa sai nhanh nhất...); đổi mới căn bản nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó có phương thức lãnh đạo xây dựng Nhà nước thật sự của nhân dân, bảo đảm quyền lực là của nhân dân. Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước. Ủy quyền mà không mất quyền. Ủy quyền và kiểm soát được quyền lực, không để lộng quyền.
Một dân tộc muốn tiến lên cần phải có bộ tham mưu chiến lược. Có sự lãnh đạo của một đảng chân chính và trí tuệ là yêu cầu khách quan. Nhưng khi trở thành đảng cầm quyền thì hoạt động của đảng không tránh khỏi có nhiều việc liên quan với quyền lực. Đảng ta luôn ý thức về sự lãnh đạo của mình chủ yếu phải bằng giá trị (văn hóa) chứ không phải bằng quyền lực, và Đảng phải nghĩ ra các cơ chế để đảng viên, nhân dân và pháp luật kiểm soát mình, kể cả nhân cách và việc sử dụng quyền lực, để Đảng được rèn luyện liên tục, thường xuyên; từ đó mà không bị thoái hóa và ngày càng trưởng thành hơn. Thực hiện điều ấy bằng cơ chế kiểm soát quyền lực và cơ chế thực thi dân chủ. Để có thể thành công, bản thân Đảng phải gương mẫu, từng cấp ủy và từng cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, vượt qua chính mình. Đảng phải là “con” của nhân dân, là “con nòi” của dân tộc, là đứa con trung hiếu và trưởng thành, để “lòng dân yêu Đảng như là yêu con” như cách nói của Bác Hồ và nhà thơ Tố Hữu. Làm được như vậy, Đảng sẽ được nhân dân luôn tin yêu, nhờ đó mà giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình để làm tròn sứ mệnh phụng sự nhân dân và Tổ quốc./.
Vũ Ngọc HoàngTS, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương

Không có nhận xét nào: