Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2015

Kỷ niệm 70 năm chiến tranh Việt-Pháp 19/12/2015: Ôn lại những biến cố đưa tới ngày “toàn quốc kháng chiến”

Ngọc Thu

17-12-2015
Nhân ngày 19 tháng 12 sắp tới là ngày kỷ niệm 70 năm chiến tranh Việt-Pháp, trang Ba Sàm thấy nên ôn lại giai đoạn lịch sử ngắn ngủi 15 tháng nhưng đầy biến động, từ ngày Pháp theo quân Anh trở lại miền Nam Việt Nam vào tháng 9 năm 1945, nhất là sau khi tới miền Bắc vào tháng 3 năm 1946, cho đến ngày bùng nổ “toàn quốc kháng chiến”. Những biến cố này khởi sự từ chủ nghĩa đế quốc của tướng de Gaulle và các lãnh đạo Pháp kế tiếp muốn thâu hồi ba nước Đông Dương đã bị Nhật chiếm đoạt trước khi Thế chiến II chấm dứt. Vì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và lực lượng Việt Minh còn quá mới và quá yếu trong khi còn phải đối phó với các đảng phái quốc gia đang giành chính nghĩa chống Pháp, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã phải chấp nhận ký với Pháp hai bản thỏa ước tạm thời để có thời gian chuẩn bị chiến tranh. Dù đã có được lợi thế đưa Việt Nam vào trong Khối Liên Hiệp Pháp, các lãnh đạo Pháp, kể cả những bạn cũ của Hồ Chí Minh trong đảng Xà Hội và đảng Cộng sản Pháp, đều nóng lòng chiếm đoạt lại Việt Nam khiến cho chiến tranh không thể nào tránh được.
Tài liệu dưới đây, trích từ cuốn “Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học lịch sử” của Giáo sư Lê Xuân Khoa, tường thuật khá đầy đủ nguyên nhân và những diễn biến đưa đến ngày bùng nổ chiến tranh Việt-Pháp kéo dài tám năm mà kết quả là Pháp thua trận nhưng đất nước lại bị chia đôi và lâm vào một cuộc chiến mới kéo dài thêm 20 năm nữa. Trong thời gian chiến tranh, Pháp đã phạm nhiều sai lầm và bỏ lỡ nhiều cơ hội hòa bình. Đây là những vấn đề được đề cập ở những trang sau của cuốn sách.
____
GS Lê Xuân Khoa
Sau khi tư lệnh hải quân Rigault de Genouilly hạ lệnh bắn phá cửa biển Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lăng Việt Nam năm 1858, triều đình Huế đã phải ký tổng cộng ba thỏa ước, hai lần đầu mỗi lần nhường một phần đất miền Nam cho Pháp nhưng đến lần thứ ba, với thỏa ước Patenôtre 1884, thì toàn thể Việt Nam phải chịu sự đô hộ của Pháp dưới ba chế độ khác nhau: miền Nam nhường đứt cho Pháp dưới chế độ thuộc địa, miền Trung và miền Bắc đặt dưới chế độ bảo hộ (trừ Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng phải nhường cho Pháp) nhưng triều đình Huế được chia quyền cai trị về hành chánh ở miền Trung. Tính từ 9 tháng 5, 1862 là ngày bán thỏa ước đầu tiên được ký kết cho đến 9 tháng Ba 1945 là ngày Pháp bị Nhật đuổi ra khỏi Đông Dương, tổng cộng thời gian Việt Nam bị Pháp đô hộ là 83 năm. Trong thời gian này, thực dân Pháp đã triệt để khai thác tài nguyên và sức lao động của dân Việt, thi hành chính sách ngu dân, bác bỏ những yêu cầu được đối xử công bằng, và thẳng tay đàn áp những hành động chống đối hay nổi loạn. Mặc dầu vậy, Pháp vẫn phải liên tiếp đối phó với những phong trào chính trị hay lực lượng vũ trang được khởi xướng hay lãnh đạo bởi các sĩ phu nho học hay những trí thức thấm nhuần tư tưởng tự do dân chủ Tây phương. Vì mục tiêu giới hạn của cuốn sách, chương này sẽ không nói đến những biện pháp bóc lột và đàn áp của thực dân Pháp trong giai đoạn đô hộ Việt Nam mà sẽ chỉ nói đến những sai lầm của Pháp trong thời kỳ 1945-1954 đối với chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Việt Minh cũng như với chính quyền Quốc gia Việt Nam thời Bảo Đại.

Thế Chiến II chấm dứt không chỉ đánh dấu sự thất bại của Đức Quốc Xã và Quân phiệt Nhật trong tham vọng chinh phục toàn cầu, nó còn báo hiệu sự suy tàn của những đế quốc thuộc địa ở châu Á và châu Phi. Một loại chiến tranh mới —Chiến Tranh Lạnh— giữa hai phe tư bản và cộng sản xuất hiện khi Hoa Kỳ và Nga Sô bắt đầu củng cố và tăng cường lực lượng bằng cuộc thi đua võ trang và một loạt chiến tranh ủy nhiệm tại những khu vực khác nhau trên thế giới. Để ngăn chặn sự bành trướng ảnh hưởng của cộng sản, Hoa Kỳ thấy cần phải giải trừ chế độ thuộc địa và hỗ trợ cho các phong trào đòi tự do, dân chủ và nhân quyền ở các nước nghèo và bị áp bức. Hoa Kỳ tự ý trao lại chủ quyền cho Phi-líp-pin năm 1946. Anh quốc nhìn nhận nền độc lập của Ấn-độ năm 1947, và Hoà Lan cũng phải trả lại độc lập cho In-đô-nê-sia năm 1949. Chỉ còn Pháp là đế quốc duy nhất vẫn tiếp tục mưu toan duy trì quyền lực ở Đông Dương, làm hại chính nghĩa quốc gia ở Việt Nam và phải chuốc lấy thảm bại Điện Biên Phủ năm 1954.
Quan niệm của Pháp về Đông Dương — được xác định trong bản Tuyên cáo ngày 25 tháng Ba 1945 của Chính phủ Lâm thời do tướng Charles de Gaulle lãnh đạo — là “Một Liên Bang gồm tất cả năm lãnh thổ Đông Dương, cùng với nước Pháp và các thuộc địa khác hợp lại thành khối Liên Hiệp Pháp.”
1. Liên Bang Đông Dương sẽ có một chính phủ do một Toàn Quyền (Gouvemeur Général) người Pháp làm Chủ tịch, và các Bộ trưởng sẽ do Toàn Quyền lựa chọn gồm những người bản xứ và Pháp kiều. Quốc Hội Liên Bang cũng gồm cả đại biểu Pháp và bản xứ với quyền lực rất giới hạn. Quốc phòng và Ngoại giao là trách nhiệm của người Pháp. Điều quái gở là theo chế độ chính trị này, Việt Nam còn bị thiệt hại hơn cả những điều khoản qui định trong Thỏa ước Patenôtre 1884, vì quốc gia Việt Nam bị chia làm ba xứ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) cùng với Cam-bốt và Lào hợp thành Liên Bang Đông Dương trong khối Liên Hiệp Pháp. Thời đó, người Pháp vẫn coi Đông Dương là thuộc quyền sở hữu của họ — do đó có tên “xứ Đông Dương thuộc Pháp” (Indochine Francaise), gọi tắt là Đông Pháp — và người bản xứ là những dân mọi rợ được Pháp tới cai trị với sứ mệnh khai hoá văn minh (mission civilisatrice), vì thế dân bản xứ cần phải biết ơn “mẫu quốc.” Ngay cả Sainteny cũng phải bực mình khi nhận thấy hầu hết các viên chức người Pháp hồi đó vẫn tin tưởng rằng “dân chúng Đông Dương đang nóng lòng chờ đợi chúng ta trở lại và chuẩn bị dang tay chào đón chúng ta.”

2.Tướng de Gaulle luôn luôn bị ám ảnh bởi sự cần thiết phải phục hồi danh dự cho nước Pháp sau khi đã phải đầu hàng Đức (tháng Sáu 1940), chịu cho Nhật kiểm soát về quân sự ở Đông Dương (tháng Chín 1940), rồi bị Nhật lật đổ ở Đông Dương (tháng Ba 1945). Vì vậy ngoài công cuộc kháng chiến chống Hitler, de Gaulle còn muốn xác định vai trò của Pháp như một cường quốc trên thế giới bằng cách thâu hồi các thuộc địa cũ ở châu Á và châu Phi. Ngay từ khi mới chạy sang Anh quốc để lãnh đạo kháng chiến, de Gaulle đã trông cậy một phần vào nguồn tài sản của Pháp quốc hải ngoại làm hậu thuẫn cho sứ mệnh giải phóng quê hương. Trong lời hiệu triệu dân chúng Pháp từ London ngày 18 tháng Sáu, ông lên tiếng: “Đồng bào hãy tin ở lời tôi vì tôi biết rõ điều tôi đang nói. Tôi nói rằng nước Pháp không mất gì hết. Vì nước Pháp không cô đơn. Nước Pháp không cô đơn. Nước Pháp không cô đơn… Nước Pháp còn có một đế quốc rộng lớn ở sau lưng.”
3.Ngay sau khi Nhật tấn công Pearl Harbour (Trân Châu Cảng) ngày 7 tháng Mười Hai 1941, Pháp cũng ra tuyên cáo khai chiến với Nhật cùng với Hoa Kỳ và Anh quốc, dù không được mời. Đối với de Gaulle, việc tham gia vào mặt trận Thái Bình Dương là một cơ hội để tái xác định vị trí cường quốc của Pháp. Tháng Bảy 1943, de Gaulle chủ trương rằng “chiến dịch có ưu tiên cao nhất sau khi giải phóng chính quốc là giải phóng Đông Dương.”

4.Đến tháng Giêng 1944, trong bài diễn văn khai mạc hội nghị Brazzaville, ông lại nhắc đến “khả năng thiên phú bất diệt của nước Pháp với những sáng kiến đưa con người dần dần lên đến tột đỉnh của nhân phẩm và tình huynh đệ”. Vì cái sứ mệnh khai hóa văn minh ấy, de Gaulle quả quyết rằng trong tình trạng tạm thời bị đẩy lui, “nước Pháp đã tìm được sự giúp đỡ ở các lãnh thổ hải ngoại, nơi mà tất cả các khối dân chúng ở khắp nơi trên thế giới không một phút nào thay đổi lòng dạ trung thành với nước Pháp…”

5. Biết rằng Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt không muốn cho Pháp trở lại Đông Dương, de Gaulle đã vận động với Anh và được thủ tướng Churchill đồng ý giúp đỡ. Từ tháng Bảy 1944, Lực lượng Đặc nhiệm 136 của Anh ở Viễn Đông bắt đầu thả dù người và dụng cụ tiếp tế cho tình báo Pháp ở Đông Dương. Sau cuộc đảo chính 9 tháng Ba 1945 của Nhật, tàn quân Pháp chạy sang Quảng Tây và Vân Nam vẫn còn được Lực lượng 136 tiếp tế nhưng chỉ giới hạn hoạt động ở vùng Thượng Lào vì ở Việt Nam đã có Việt Minh thay thế với sự giúp đỡ của tình báo Mỹ OSS.

6. Cho đến ngày de Gaulle từ chức vào tháng Giêng 1946, ông vẫn không thay đổi đầu óc thực dân lỗi thời đối với Việt Nam. Ông không chấp nhận điều đình với Việt Minh cho đến khi nào Pháp đã phục hồi được uy quyền ở Việt Nam. Trong chuyến đi vận động Washington vào tháng Tám 1945, mặc dù chỉ được Tổng Thống Truman hứa sẽ không cản trở việc Pháp trở lại Đông Dương, ông đã tuyên bố trong một cuộc họp báo: “Lập trường của Pháp về Đông Dương rất đơn giản: Pháp muốn khôi phục chủ quyền của mình ở Đông Dương.” Ông cũng làm cho nhân dân Việt Nam vừa tức giận vừa buồn cười khi ông lên đài phát thanh ở Washington ngày 15 tháng Tám để chuyển một thông điệp về Đông Dương: “Địch quân (Nhật) đã đầu hàng. Mai đây Đông Dương sẽ tự do. Trong giờ phút quyết định này, mẫu quốc gửi về cho đàn con Đông Dương lời bày tỏ niềm vui, tình trìu mến và lòng biết ơn của mình. Vì thái độ đối với quân xâm lược, vì lòng trung thành đối với nước Pháp, những người con Đông Dương đã tỏ ra xứng đáng được hưởng một đời sống rộng rãi hơn và tự do hơn…”

7. Cũng trong ngày hôm đó, ông gửi một bản chỉ thị cho Đô đốc d’Argenlieu, xác nhận “Cao Ủy Pháp có quyền hành của chức vụ Toàn quyền ở Đông Dương kiêm Tổng tư lệnh các lực lượng hải, lục, không quân có căn cứ tại Đông Dương hay được chỉ định tới xứ này. Nhiệm vụ đầu tiên của Cao úy là phục hồi chủ quyền (của Pháp) trên các lãnh thổ của Liên hiệp Đông Dương.”

8. Trong lá thư viết cho tướng Leclerc ngày 25 tháng Chín 1945, de Gaulle quở trách: “Nhiệm vụ của ông là tái lập chủ quyền của nước Pháp ở Hà Nội và tôi lấy làm ngạc nhiên thấy ông vẫn chưa làm được việc đó.”

9. Đến tháng Mười, khi toà Đại sứ Mỹ ở Trùng Khánh yêu cầu được cung cấp một bản tuyên cáo mới về ý định của Pháp đối với Đồng Dương, de Gaulle bực tức trả lời: “Không thể có chuyện chính phủ Pháp phải ra một tuyên cáo mới về Đông Dương vào lúc này. Bản tuyên cáo tháng Ba tự nó đã đầy đủ rồi. Nhắc lại chỉ làm cho tình thế phức tạp hơn.”

10. Ở đây cũng nên nhắc đến quan niệm của Toàn Quyền Decoux, tiến bộ hơn so với quan niệm của de Gaulle, về chính sách đối với Đông Dương. Decoux viết: “Trong suốt sự nghiệp của tôi, tôi đã được chứng kiến tận mắt những sai lầm trong chính sách ở những thuộc địa cũ của chúng ta… Những lời tuyên bố thiếu thận trọng và không hợp thời tại hội nghị Brazzaville là nguyên do của phản ứng thoát ly không thể kiềm chế được.” Decoux cũng cho rằng đã đến lúc cần phải “từ bỏ nguyên tắc lỗi thời của ‘thỏa ước thuộc địa’ và tiên đoán khá sáng suốt rằng “Tình trạng một bên là cuộc tiến hoá về tư tưởng trên thế giới, một bên là những lỗi lầm ngày càng chồng chất, hiển nhiên sẽ quyết định một xứ Đông Dương mới, khác xa quá khứ, trong đó chỗ đứng của chúng ta sẽ kém phần ưu thắng và ngoạn mục.” Ông hình dung ra một “Hiệp hội các quốc gia Đông Dương” nhưng không nói rõ hơn về chi tiết.

11. Sau de Gaulle phải nói đến Cao ủy Thierry d’Argenlieu, người thay thế cho Decoux ở Đông Dương. Mặc dù trực tiếp đụng chạm với thực tế ở Việt Nam và am hiểu tình hình xứ này hơn de Gaulle, d’Argenlieu vẫn tin tưởng có thể bắt ép Việt Nam bằng sức mạnh quân sự. Ông đã nhắc nhở Sainteny tuyệt đối không dùng từ ngữ “độc lập” khi điều đình với Hồ Chí Minh, và ngay cả sau khi Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba chỉ cho Việt Nam qui chế của một “nước tự do,” d’Argenlieu vẫn không muốn thi hành hiệp định này. Chỉ hai ngày sau khi bản hiệp định được ký, ông đã bực tức nói với tướng Valluy, “Tôi thật lấy làm lạ rằng nước Pháp có một đạo quân viễn chinh hùng hậu như vậy ở Đông Dương mà các nhà lãnh đạo lại thích đàm phán hơn là chiến đấu.”

12. Ngày 24 tháng Ba, thay vì đến Hà Nội thăm vị nguyên thủ của quốc gia chủ nhân, d’Argenlieu chỉ thị cho Sainteny mời Hồ Chí Minh tới gặp ông trên chiến hạm Emile Bertin ở ngoài khơi Vịnh Hạ Long. Cùng đi với ông Hồ là Phụ tá Hoàng Minh Giám và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam. Trước khi họp, d’Argenlieu mời Hồ Chí Minh cùng duyệt khán một cuộc diễn hành của hạm đội Pháp, rõ ràng với dụng ý phô trương lực lượng hòng áp đảo tinh thần đối thủ của mình.

13. Hai bên đồng ý sắp xếp phiên họp chuẩn bị ở Đà Lạt vào tháng Tư và hội nghị chính thức ở Fontainebleau vào cuối tháng Năm. Hội nghị Đà Lạt bế tắc vì hai bên không đồng ý về vai trò “quốc gia tự do” trong khôi Liên Hiệp Pháp cũng như về thủ tục trả lại Nam Kỳ cho Việt Nam.
Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp ngày 30 tháng Năm 1946 để theo dõi diễn tiến của hội nghị Fontainebleau và hoạt động của phái đoàn Việt Nam do Phạm Văn Đồng cầm đầu. Chỉ mấy ngày sau, khi còn dừng chân ở Ai cập, thì có tin d’Argenlieu đã cho ra đời nước Cộng Hòa Nam Kỳ Tự Trị (République Autonome de Cochinchine) để đặt phái đoàn Việt Nam trước “một sự đã rồi”.

14. Vì Pháp đang bận bầu cử quốc hội và thay đổi chính phủ nên mãi đến ngày 6 tháng Bảy hội nghị Fontainebleau mới bắt đầu họp. Tại đây, tình trạng bế tắc còn trầm trọng hơn ở hội nghị Đà Lạt ba tháng trước đó. Ngày 1 tháng Tám, khi được tin d’Argenlieu triệu tập một hội nghị khác ở Đà Lạt để thành lập Liên Bang Đông Dương trong đó có Cộng Hòa Nam Kỳ và Cao Nguyên miền Trung, phái đoàn Việt Nam bỏ họp để phản đối. Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngọai Marius Moutet phải cố gắng dàn xếp. Cuối tháng Tám hội nghị mới họp tiếp nhưng vẫn không giải quyết được gì và đến 13 tháng Chín phái đoàn Phạm Văn Đồng phải tay không trở về nước. Hồ Chí Minh ở lại họp riêng với Marius Moutet, thuyết phục người bạn cũ trong đảng Xã Hội: “Anh không nên để tôi ra đi như thế này. Hãy tiếp tay cho tôi để chống lại những kẻ đang tìm cách lấn át tôi. Anh sẽ không hối tiếc đâu.”

15. Trước thái độ kiên quyết của Moutet, nửa đêm ngày 14 tháng Chín, ông Hồ trở lại nhà riêng của Moutet để ký một bản tạm ước (modus vivendi) mà nội dung còn thua thiệt cho Việt Nam hơn cả hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba, vì Pháp vẫn duy trì mọi quyền lợi căn bản trong khi qui chế “quốc gia tự do” còn bỏ lửng và cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề Nam Kỳ không được nhắc đến nữa. Điểm mới duy nhất trong bản tạm ước là sự hứa hẹn “cùng nhau tìm cách đạt được các thỏa thuận về mọi vấn đề có thể được đặt ra” và đồng ý sẽ tiếp tục cuộc đàm phán để tiến tới việc kết thúc thỏa hiệp trễ nhất là tháng Giêng 1947. Ký xong bản tạm ước, Hồ Chí Minh nói với Sainteny khi ra khỏi nhà của Moutet: “Tôi vừa tự ký cho tôi một bản án tử hình”:

16. Hồ Chí Minh không thể nào thất vọng hơn vì trước khi lên đường ông rất tin tưởng rằng việc ông trở lại Pháp để vận động những nhân vật quen biết cũ sẽ phải đem lại kết quả tích cực. Thật đáng ngạc nhiên là trong giới lãnh đạo Pháp, ngay cả những nhân vật thuộc phe tả, cũng không có người nào từ bỏ tham vọng đế quốc và giúp cho Hồ Chí Minh đạt được thỏa ước về một “quốc gia tự do” theo đó Pháp vẫn còn được hưởng nhiều quyền lợi. Marius Moutet đã đồng tình với Cao ủy ở Nam Kỳ Jean Cèdile khi ông này tuyên bố về hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba rằng: “chính phủ Pháp có ý định thiết lập ở Nam Kỳ, cũng như ở các nước khác trong Liên Bang Đông Dương, một chính thể tự do tương tự như chính thể hiện hữu ở Cam-bốt… Nam Kỳ cũng sẽ có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chánh riêng. Nam Kỳ sẽ có những quyền lợi y như các thành viên khác của Liên Bang.”

17. Ngay cả Đảng cộng sản Pháp, tuy ngoài miệng vẫn nói ủng hộ các dân tộc Đông Dương nhưng không hề chứng tỏ bằng hành động cụ thể. Tổng Bí thư Maurice Thorez đã đặt tham vọng quốc gia trên tình nghĩa đồng chí, dù Hồ Chí Minh thuộc thành phần sáng lập đảng cộng sản Pháp. Khi được Sainteny hỏi ý kiến về hiệp định 6 tháng Ba, Thorez gợi ý rằng “nếu phía Việt Nam không tôn trọng những điều ký kết chúng ta sẽ áp dụng những biện pháp cần thiết và, nếu cần, để cho sóng đạn nói chuyện dùm cho chúng ta.”

18. Ông cũng cho nhà báo Philippe Devillers hay rằng đảng cộng sản Pháp không có ý bài bác sự hiện diện của nước Pháp ở Đông Dương và nhiệt tình mong muốn thấy lá cờ tam tài tung bay trên những lãnh thổ xa xôi của khối Liên Hiệp Pháp trên toàn thế giới.

19. Bản tạm ước 14 tháng Chín là một sự thất bại của Hồ Chí Minh nhưng đây cũng là một bước lùi chiến thuật vì ông cần có thêm thời gian để chuẩn bị một cuộc chiến lâu dài khó lòng tránh khỏi. Chính phủ gia tăng động viên tinh thần chống Pháp và đoàn ngũ hoá quần chúng dưới sự lãnh đạo của mặt trận Việt Minh. Khí giới được mua thêm và chuyển vào Việt Nam bằng đường biển. Tình hình càng ngày càng căng thẳng với những vụ đụng độ nhỏ xảy ra hằng ngày. Trong Nam, Pháp mở chiến dịch tấn công các lực lượng kháng chiến ở vùng đồng bằng Cửu Long, và Trần Văn Giàu bắt đầu áp dụng chiến thuật du kích và “tiêu thổ kháng chiến.” Nghiêm trọng nhất là vụ Hải Phòng. Đầu tháng Mười Một, Pháp chiếm Sở Quan thuế ở thành phố này và đuổi hết nhân viên người Việt ra ngoài. Ngày 20, Pháp chặn bắt một chiếc tàu chở dầu xăng của Trung Hoa và bị bộ đội Việt Minh tấn công. Ngày 23, Đại tá Dèbes, chỉ huy quân Pháp ở Hải Phòng, ra tối hậu thư đòi quân Việt Nam phải hạ khí giới và rút ra khỏi khu người Hoa. Khi tối hậu thư bị bác, hải quân Pháp pháo kích như mưa vào thành phố làm chết tới mấy ngàn dân.

20. Tiếp theo đó, hai ngàn quân Pháp tràn vào hải cảng tiến chiếm khu người Hoa. Bộ đội Việt Minh chiến đấu cho đến ngày 28 thì phải rút ra khỏi khu phố này.Hai bên tiếp tục chuẩn bị chiến tranh trong khi Sainteny và Hồ Chí Minh vẫn cố gắng thăm dò lẫn nhau về giải pháp hòa bình. Ngày 15 tháng Mười Hai, Hồ Chí Minh nhờ Sainteny gửi một điện văn của ông cho tân thủ tướng Pháp Léon Blum đưa ra những đề nghị cụ thể để giải quyết cuộc tranh chấp. Trước khi chuyển về Paris, Tướng Tư lệnh Jean-Étienne Valluy ghi thêm lời cảnh cáo rằng trì hoãn hành động quân sự cho tới năm mới là một điều nguy hiểm. Trước đó, ông đã tính khai chiến với Hà Nội để đặt chính phủ Pháp trước một sự đã rồi. Ngày 17, xe thiết giáp quân đội Pháp đi phá các chướng ngại vật do những đoàn “tự vệ” cuả dân chúng dựng lên ở ngoài đường trong khi đội quân “lê dương” (légionnaires) dàn trải trên các nẻo đường từ trại lính đến phi trường Gia Lâm. Ngày hôm sau Pháp ra tối hậu thư cấm dựng chướng ngại vật trên đường phố. Chiều hôm đó lại thêm tối hậu thư loan báo, kể từ ngày 20, quân đội Pháp sẽ phụ trách an ninh công cộng khắp thủ đô. Tối hôm đó, Việt Minh bắt đầu chặn các lối từ bên ngoài vào thủ đô. Sáng ngày 19, Pháp lại ra tối hậu thư thứ ba đòi hỏi chính phủ Việt Nam ngưng tất cả mọi cuộc chuẩn bị chiến tranh, giải tán các đội dân quân tự vệ và giao quyền phụ trách an ninh thủ đô cho quân đội Pháp. Hồ Chí Minh và ủy ban thường trực đảng cộng sản quyết định không thể nhượng bộ được nữa. Trong khi Hồ Chí Minh và Trường Chinh thảo bản hiệu triệu “toàn quốc kháng chiến”, Võ Nguyên Giáp cũng thảo nhật lệnh cho binh sĩ chiến đấu. Chính phủ và quân chủ lực bắt đầu rút ra khỏi thủ đô. Tám giờ tôi hôm đó (19.12.1946), Việt Minh phá nhà máy đèn, toàn thành phố chìm trong đêm tối. Các đội dân quân tấn công các cơ sở và cư xá của Pháp, sát hại và bắt đi một số Pháp kiều. Chiếc xe thiết giáp đến đón Sainteny bị trúng mìn trên đường vào thành lính. Sainteny bị thương nằm giữa xác đám lính Pháp tới hai tiếng đồng hồ sau mới được đưa vào thành. Cuộc chiến tranh Việt-Pháp chính thức bắt đầu.21
Ghi chú:

[1] Journal Officiel de la République Française, 25.3.1945. Năm đơn vị lãnh thổ Đông Dương gồm Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine), Cam-bốt và Lào. Nên chú ý là những tên Tonkin, Annam, và Cochinchine do Pháp đặt ra không có hàm ý rằng đây là ba miền (kỳ) của một nước Việt Nam, như trong tên tiếng Việt. Đây là chủ ý của người Việt Nam khi dịch sang tiếng Việt để bảo vệ ý nghĩa thống nhất của ba miền đất nước.
2 Jean Sainteny, Histoire d’une Paix Manquée: Indochine 1945-1947(Paris: Fayard, 1967), 49.
3 David Shoenbrun, Av France Goes (New York, 1957), 214. Mỉa mai thay, chưa đầy hai mươi bôn tiếng đồng hồ sau, Toàn Quyền Đông Dương Georges Catroux đã phải chấp thuận tối hậu thư của Nhật do Đại sứ Pháp từ Tokyo chuyển tới đòi “đóng cửa biên giới (Đông Dương) không cho chuyên chở (sang Trung Hoa) bằng đường bộ hay đường sắt các vật liệu như dầu xăng, xe vận tải, đồng thời phải để cho Nhật kiểm soát việc đóng cửa biên giới này.” (Amiral Decoux, A la Barre de l’Indochine, (Paris: Plon, 1949,) 66.
4 Philippe Devillers, Paris-Saigon-Hanoi, Les Archives de la Guerre, 1944-1947 (Paris: Gallimard/Julliard,) 21-22.
5 Charles de Gaulle, Allocution prononcée à l’occasion de l’ouverture de la conférence de Brazzaville, 30 janvier 1944.
6 Lực lượng 136 (Force 136) từ đầu năm 1943 đã tuyển một số tù chính trị cộng sản Việt Nam bị Pháp giam giữ ở Madagascar đưa sang Calcutta huấn luyện về truyền tin, đến giữa 1944 thì được thả dù xuống Việt Bắc để chống Nhật. Tất cả những người này đều bắt liên lạc được với Việt Minh để hoạt động chống Pháp. Như Lê Giản đã nhận xét sau đợt nhảy dù đầu tiên của ông và Hoàng Đình Rong: “Thế là keo đầu tiên chúng tôi đã thắng đế quốc Anh trong sách lược lợi dụng bọn chúng nhằm phục vụ mục đích của mình.” (Lê Giản, Những Ngày Sóng Gió [Hà Nội: NXB Công An Nhân Dân, tái bản năm 2000], 118). Lê Giản làm Tổng Giám đốc Công An vào tháng Hai 1946, rất có công trong công cuộc truy lùng các đảng viên VNCMĐMH và VNQDĐ. Trong những năm gần đây, ông lại là một trong những đảng viên lão thành lên tiếng tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Ông mất năm 2003.
7 Jacques de Folin, Indochine 1940- 1945: La Fin d’Un Rêve (Paris: Perrin, 1993), 99.
8 Ibid., 99.
9 Ibid., 128.
10 Ibid., 98. Ở đây, de Gaulle nhắc đến Tuyên cáo 24.3.1945 của Chính phủ Lâm thời Pháp lúc đó còn lưu vong ở bên Anh.
11 Decoux,. 488-489.
12 Philippe Devillers, Histoire du Vietnam de 1940 à 1952 (Paris: Editions du Seuil, 1952), 242.
13 Trên đường về Hà Nội, Hồ Chí Minh nói với tướng Raoul Salan, phụ tá của d’Argenlieu: “Nếu Đô đốc (d’Argenlieu) nghĩ rằng tôi bị khiếp đảm vì sức mạnh của hạm đội Pháp thì ông ấy đã lầm. Chiến hạm của các ông sẽ chẳng bao giờ có thể tiến được vào những con sông của chúng tôi.” (William J. Duiker, Ho Chi Minh (New York, Hyperion, 2000,) 368.
14 Chính phủ Nam Kỳ Tự Trị do Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng. BS Thinh là một người yêu nước, lúc đầu tham gia đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu sau lập ra đảng Dân Chủ Đông Dương cùng với BS Trần Văn Đôn (thân phụ tướng Trần Văn Đôn). Khi ông thấy Pháp không thật tâm trao quyền cho Chính phủ cộng hòa Nam Kỳ Tự trị và bị dư luận lên án, ông treo cổ tự tử ngày 10.11.1946
15 Sainteny, 231.
16 Jean Sainteny, Ho Chi Minh and His Vietnam: A Personal Memoir,trans­lated by Herma Briffault (Chicago: Cowles Book, 1972), 88.
17 Devillers, Histoire du Vietnam, 244.
18 Sainteny, Ho Chi Minh, 71.
19 Devillers, Histoire du Vietnam, 269.
20 Sainteny, Ho Chi Minh and His Vietnam, 92; Gary R. Hess, The United States’ Emergence as a Southeast Asia Power (New York: Columbia University Press, 1987), 201.
21 Duiker, 395-397.

Từ Toàn Quốc Kháng Chiến Tới Điện Biên Phủ

Trọng Đạt
17-12-2015
Tình hình sau thế chiến
Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính pháp tại Đông Dương, Đại sứ Nhật yết kiến nhà vua và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Bảo Đại bèn tuyên bố độc lập ngày 10-3-1945 và gia nhập khối Đại Đông Á, nhà vua ra tuyên ngôn độc lập ngày 11-3-1945. Ông mời Giáo sư Trần Trọng Kim làm Thủ Tướng thành lập nội các ngày 7-4-1945, lấy bài Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước làm quốc ca, lấy cờ vàng quẻ ly gồm hai vạch liền và một gạch gẫy ở giữa làm quốc kỳ.
Ngày 15-8-1945 Nhật đầu hàng Đồng minh, Thủ Tướng Trần Trọng Kim xin từ chức ngày 7-8 vì bất lực, chính phủ không có quân đội. Khi ấy tình hình trong nước rất xáo xộn, Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền 19-8, ngày 22-8 họ gửi điện văn vào Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị, họ đã cướp được chính quyền. Các vị triều thần như Thủ Tướng, Tổng Lý Ngự Tiền Văn Phòng cũng khuyên nhà vua thoái vị, vì quá sợ hãi Việt Minh đang bành trướng mạnh lại có vũ trang. Tháng 6 năm 1945 Hồ chí Minh đã được Mỹ thả dù xuống chiến khu cung cấp cho VM nhiều súng đủ các loại để chống Nhật. Chính phủ Trần Trọng Kim không có quân đội nên dù muốn chống lại phong trào cũng khó. Ngày 25-8-1945, nhà vua đọc bản tuyên ngôn thoái vị trước cửa Ngọ môn lâu.
Ngày 2-9 Hồ chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập.
De Gaulle quyết định tái chiếm Đông dương để đòi lại chủ quyền những nhà máy, đồn điền, cửa hàng, mỏ than… mà Pháp cho là của họ. Tháng 9-1945 Thực dân thành lập Quân đoàn viễn chinh để tái chiếm Đông Dương, họ gặp sự kháng cự mạnh của người Việt và cường độ chiến tranh ngày một gia tăng có thể chia làm 3 giai đoạn (1)
– Chuẩn bị tái chiếm (1945-1946) – Theo dõi tình hình, móc nối Pháp kiều và những thành phần thân Pháp.
– Tái chiếm (1946-1949) – Pháp trở lại Đông Dương sau khi Nhật đầu hàng , đưa quân chiếm lại toàn cõi Đông Dương
– Chiến tranh khốc liệt- (1949-1954) Sau khi chiếm trọn vẹn nước Tầu, Trung Cộng huấn luyện và viện trợ cho Việt Minh nhiều vũ khí, đạn dược khiến tình thế ngày càng bất lợi cho Pháp, họ yếu thế và sa lầy.
Hội nghị Postdam tháng 7-1945 quyết định giao cho quân đội Trung Hoa giải giới Nhật phía trên vĩ tuyến 16, phía dưới thuộc quân Anh
Diễn tiến quân sự
Pháp theo chân quân Anh giải giới Nhật, tới Tân Sơn Nhất với 300 người lính đầu tiên ngày 11-9, sau họ đưa thêm nhiều quân sang chiếm các tỉnh dưới vĩ tuyến 16. Từ giữa tháng 10-1945 tới đầu tháng 2-1946 quân Pháp đã bình định được miền nam, chiếm lại được Vĩnh Long, Cần Thơ, Tây Ninh, Nha Trang, Ban Mê Thuột, Long Xuyên, Châu Đốc, Cà Mâu….
Trong thời gian này họ đã đưa vào 50,000 quân tham chiến, 7,425 xe cộ đủ loại , 21,000 tấn quân nhu, tổng kết Pháp có 630 người chết và mất tích, 1,037 người bị thương (2)
Đầu năm 1946, Pháp bắt đầu thương thuyết với chính phủ Tưởng Giới Thạch tại Trùng Khánh để được thay thế quân Tầu giải giới Nhật. Sau đó thương thuyết với Việt Minh
Đầu tháng 3-1946 Tướng Leclerc cho đổ bộ lên Hải Phòng , ngày 5-3 quân Pháp và Tầu đã chạm súng nhưng sau đó hai bên đã dàn xếp. Việt Minh ký với Pháp Hiệp định sơ bộ thuận cho Pháp vào BV. Họ mượn tay Pháp để đuổi Tầu về nước (3) và củng cố nội bộ, tiêu diệt các đảng phái quốc gia không CS. Theo tờ tường trình của Tướng Leclerc gửi chính phủ Pháp ngày 27-3-1946 thì tính tới cuối năm, VM đã thủ tiêu, giết hại tổng cộng khoảng 50,000 người
Ngày 18-3 Leclerc đưa quân từ Hải phòng lên Hà nội, ngày 27-3 Leclerc thảo tờ trình Chính phủ cho biết 6 tháng qua (9/1945 – 2/1946) có 600 lính Pháp bị giết, 1,000 bị thương. Từ giữa 1945 Việt Minh được Mỹ thả dù cho nhiều súng đạn để chống Nhật. Tháng 9 sau khi đầu hàng, nhiều người Nhật giúp súng đạn và huấn luyện VM chống lại Pháp vì họ cũng là da vàng. Quốc dân đảng Trung hoa không ưa Pháp và bán súng cho VM nên họ cũng thành lập được một lực lượng vũ trang đáng kể.
Theo nhận xét của Henri Navarre, cựu Tư lệnh Đông dương cuộc chiến này bị đối lập tại Pháp chống lại cho là cuộc chiến ô nhục, nhơ bẩn mà chính phủ không dám đặt tên cho nó. Những đợt tiếp viện, tăng quân yếu kém được thực hiện lén lút (4)
Theo tường trình của Leclerc VM được giúp đỡ nhiều, trước đó họ cũng đã được người Trung hoa và các phái bộ Mỹ giúp về quân sự, chính trị. Họ tuyên truyền mạnh và cả hăm dọa nên số người theo rất đông
Từ đầu tháng 4, quân Pháp lần lượt thay thế quân Tầu tại miền Bắc phía trên vĩ tuyến 16. Từ tháng 4 tới tháng 6-1946 Pháp thương thuyết với VM để giải quyết tình hình bằng ngoại giao, chính trị. Hội nghị Đà Lạt ngày 17-4 không có kết quả, Hồ chí Minh cùng Tướng Salan sang Pháp theo lời mời của chính phủ Pháp từ 22-6 tới 27-7-1946. Ngày 6-7 khai mạc Hội nghị Fontainebleau, hai bên căng thẳng, phái đoàn VN bỏ ra về phản đối Pháp không thực lòng
Hồ Chí Minh ở lại ký bản tạm ước với Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại để hoãn binh. Tình hình căng thẳng giữa Việt Minh và Pháp, nhân vụ   nổ súng giữa các đơn vị VM và Pháp tại Hải phòng ngày 20-11-1946, thực dân chiếm luôn thành phố này hôm 23-11.
Leclerc từ chức Tư lệnh từ tháng 7-1946 nhưng vì tình hình căng thẳng, chính phủ Pháp cử ông sang Đông Dương điều tra ngày 18-12 nhưng đã quá trễ, hôm sau ngày 19-12-1946 chiến tranh toàn quốc bùng nổ khi VM tấn công quân Pháp tại Hà nội. Tình hình hai bên đã quá căng thẳng từ nhiều ngày trước.
Quân Pháp tại phía trên vĩ tuyến 16 có hơn một sư đoàn không đủ để bình định hết miền Bắc mà chỉ đủ giữ các thành phố. Trong mấy tháng đầu năm 1947 Pháp giải tỏa quốc lộ 5 nối Hà Nội Hải Phòng.
Chiếm Phủ lý 6-1-1947. Từ Đà Nẵng tiến ra Huế giải tỏa đơn vị Pháp bị vây tại đây, chiếm Quảng Trị ngày 18-2, chiếm Đồng Hới đầu tháng 3. Chiếm nhanh chóng mỏ than Hòn Gay. Chiếm các miền Thái thuộc Sơn La Lai Châu
Đầu tháng 4-1947 tân Cao ủy Bollaert vận động thương thuyết với VM nhưng bất thành và chuyển sang tiếp xúc với Bảo Đại lập chính phủ Quốc gia chống Cộng Sản từ tháng 9-1947. Cựu hoàng ở Hồng kông hướng các hoạt động chính trị về quốc nội.
Tháng 10-1947 Pháp mở cuộc tổng tấn công qui mô lên miền rừng núi Việt Bắc để tiêu diệt chủ lực quân VM tại đây. Họ huy động 20 tiểu đoàn bộ binh và nhẩy dù có chiến xa yểm trợ. Trung Tướng Salan chỉ huy tổng quát chiến dịch: cánh thứ nhất từ Hà nội chiếm Sơn Tây, Hưng Hóa, Phủ Đoan Hùng, cánh thứ hai dọc theo quốc lộ 4 chiếm Thất Khê, Đông Khê. Giữa hai gọng kìm này là những cánh quân nhẩy dù chiếm Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang ngày 13-10-1947, trong cuộc nhẩy dù xuống Bắc Cạn, Pháp đã bắt hụt Hồ chí Minh. Ngoài ra còn những nỗ lực phụ chiếm Tây Bắc Việt Bắc, chiếm Phong Thổ, Chapa. Cuộc hành quân không tiêu diệt được chủ lực quân VM vì họ né tránh để bảo toàn lực lượng. Sau đó Pháp rút về đồng bằng chỉ để lại quân tại vùng Đông Bắc Việt Bắc tại khu tam giác Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn.
Sang năm 1948, Pháp mở rộng vùng chiếm đóng tại Quảng Yên, Kiến An, Hà Đông, Ninh Bình, chiếm đóng Sơn Tây và Việt Trì. Phía VM mở rộng hoạt động du kích, quấy phá đồn bót, phục kích công voa.
Pháp kiểm soát được Nam việt nhưng vùng Đồng Tháp Mười, U Minh Thượng, U Minh Hạ, Tây bắc Thủ Đầu Một… vẫn thuộc VM. Ngày 1-3- 1948 VM phục kích tiêu diệt đoàn công voa Pháp, tiêu diệt 70 xe gần La Ngà trên Quốc lộ 20. Các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ở trong tay VM vì Pháp không đủ quân số để chiếm toàn thể lãnh thổ
Sang năm 1949 tháng 7 và tháng 8 Pháp mở các cuộc hành quân chiếm Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên; tháng 9 chiếm Phát Diệm và Bùi Chu
Năm 1950 tình hình biến chuyển mau lẹ, gió đã đổi chiều khi Trung Cộng chiếm trọn vẹn nước Tầu. VM được họ tiếp tế vũ khí đạn dược ồ ạt và huấn luyện tại biên giới. Trung Cộng giúp VM thành lập hai sư đoàn đầu tiên 304, 308 bằng kết hợp các trung đoàn chủ lực tại BV và Trung Việt. VM đã đủ mạnh và bước sang giai đoạn cầm cự , tháng 9-1950 họ mở chiến dịch chiến dịch Lê Hồng Phong vào vùng Tam Đảo, uy hiếp Lào Kay, và mở chiến dịch Hoàng văn Thụ chiếm Đông Khê trên quốc lộ 4 khiến Cao Bằng bị cô lập.
Trước tình hình biến chuyển, chính phủ Pháp cử Tướng Revers, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp sang Đông Dương nghiên cứu tình hình. Revers đề nghị với chính phủ cho rút khỏi Cao Bằng và được chấp thuận, đáng lẽ thực hiện sớm cuối năm 1949 nhưng vì để trễ tới cuối năm 1950 nên đã bị thảm bại.
Tháng 10-1950 VM đánh thắng trận lớn đầu tiên mà họ gọi là chiến thắng Cao Bắc Lạng. Tại trận này quân Pháp rút bỏ Cao Bằng bị chận đánh tan nát
Giữa tháng 10-1950 Pháp bỏ Lào Kay rút về Lai châu, bỏ Hòa bình.
Hạ tuần tháng 12-1950 Chính phủ Pháp cử Đại tướng De Lattre de Tassigny sang giữ chức Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh. Ngay từ giai đoạn này quân số VM đông hơn Pháp tại miền Bắc Pháp có khoảng 23 tiểu đoàn, VM có khoảng 70 tiểu đoàn, miền Trung Pháp 14, VM 18…Tháng 3-1951 De Lattre về Pháp xin tăng viện và được chấp thuận 11tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn truyền tin (5)
De Lattre là người có quyết định táo bạo tại trận Vĩnh Yên khi cho lệnh ném bom napalm ngay giữa mặt trận, ông quyết định nhanh chóng đã thắng lớn trong trận này. Đầu năm 1952 De Lattre về Pháp chết vì bệnh ung thư
Tháng 1-1951 VM đã thành lập được 5 sư đoàn bộ binh (304, 308, 312, 316, 320) và một sư đoàn pháo binh (351), họ có 81 tiểu đoàn bộ binh 12 tiểu đoàn pháo binh, 8 tiểu đoàn công binh
Các trận đánh quan trọng và các chiến dịch lớn gồm:
Trận Cao Bắc Lạng
Từ giữa và cuối 1949, Trung Cộng thắng thế tại Hoa lục, tình hình biến chuyển, chính phủ Pháp cử Tướng Revers sang Đông dương nghiên cứu tình hình, ông đề nghị rút bỏ Cao bằng . Nếu thực hiện cuối 1949 thì thuận lợi nhưng vì để tới gần cuối 1950 mới cho rút nên đã thảm bại. Trận đánh kéo dài từ từ 29-9 tới 7-10-1950, toàn bộ quân Pháp triệt thoái gồm 7,000 người. Đại tá Charton chỉ huy đạo quân rút khỏi Cao Bằng về Đông Khê. Đại tá Lepage chỉ huy một lực lượng khoảng 5 tiểu đoàn để tái chiếm Đông Khê. Cả hai cánh quân bị một lực lượng lớn của VM khoảng 30 tiểu đoàn chận đánh tan nát.
Tổng cộng Pháp mất hai liên đoàn phải bỏ Lạng Sơn. Trận đánh rung động cả nước Pháp, thiệt hại trên 7,000 người vừa bị giết vừa mất tích, mất 13 khẩu đại bác 105 ly, 125 súng cối, gần 500 xe cộ, 3 chi đội thiết giáp, 940 đại liên, 1,200 trung liên và trên 800 súng trường . Số vũ khí này VM có thể trang bị cho 5 trung đoàn bộ binh (6)
Trận Vĩnh Yên từ 13-1-1951 tới 17-1-1951
Sau trận thảm bại Cao Bắc Lạng, ngày 7-12-1950 chính phủ Pháp hốt hoảng cử Tướng De Lattre De Tassigny sang Đông Dương vào lúc này người Pháp đang mât tinh thần. Ông vừa làm Cao ủy vừa giữ chức Tư lệnh quân viễn chinh, lần đầu tiên một Tướng lãnh chỉ huy cả dân sự và quân sự. De Lattre tới Đông Dương ngày 17-12-1950 để cứu vãn tình thế và cũng để rửa hận cho trận thảm bại nhục nhã Cao -Bắc- Lạng cách đây hai tháng.
Tân Tư lệnh dám quyết định những việc mà các Tư lệnh trước không ai dám làm như tập trung xử dụng những người dân sự Pháp để đảm nhiệm canh phòng thay thế cho người lính để ra trận (7)
Sau trận đại thắng Cao Bằng mới đây, Việt Minh thừa thắng sông lên đem binh về “lấy nốt Thăng Long”. Ngày 10-1-1951 Võ Nguyên Giáp đưa hai sư đoàn 308, 312 chuẩn bị một cuộc tấn công lớn tại Vĩnh Yên gần Hà Nội và Châu thổ Bắc Việt. Việt Minh giải truyền đơn ní “Bác Hồ về Hà Nội ăn Tết”, tình báo Pháp đã biết VM tập trung quân ở đâu và mục tiêu chọn vào ngày nào.
Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương Pháp được đánh một trận diện địa chuẩn bị trước. Võ Nguyên Giáp được cố vấn Tầu dậy cho lối đánh biển người, đẩy thanh niên vào tử địa. Trận đánh diễn ra tại một vùng đồi trọc chiều ngang 12 km, dọc 10 km, phía Bắc tỉnh lỵ Vĩnh Yên. VM tập trung quân tại vùng núi Tam Đảo, lực lượng VM gồm 2 sư đoàn 308, 312; Pháp gồm hai liên đoàn: liên đoàn bắc phi của Đại tá Edon, liên đoàn 3 của Đại tá Vanuxem đóng tại các đồn phía Tây để ngăn chận VM.
Ngày 13-1 Giáp cho tấn công chia cắt hai liên đoàn Pháp, Võ Nguyên Giáp gần hoàn thành lời hứa, Hà Nội mất tinh thần, bao chí Paris đăng tin Hà Nội sắp mất.
De Lattre bèn đích thân chỉ huy trận đánh. Ngày 14-1-1951 ông bay tới Vĩnh Yên, cho trưng dụng tất cả máy bay chở quân trừ bị từ miền nam VN ra Bắc, và cho tiếp tế từ Hà nội, từ miền Bắc. De Lattre lệnh cho hai lữ đoàn chiếm các ngọn đồi phía bắc Vĩnh Yên. Ngày 16-1 lúc 15 giờ Pháp chiếm lại đồi 101, 210, lúc 17 giờ sư đoàn 308 tập trung tấn công mạnh, lần đầu tiên quân Pháp đối diện với trận đánh biển người
VM xung phong hết lớp này đến lớp khác cùng với yểm trợ của súng cối, hai bên đã trộn trấu. De Lattre có một quyết định thật táo bạo, ông huy động hàng trăm máy bay oanh tạc cơ và vận tải ném bom napalm, đây là trận oanh tạc lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương, lửa cháy ngút trời giết hại đối phương và hy sinh cả binh sĩ của Pháp.
Với lối đánh táo bạo, dũng mãnh, De Lattre đánh cho Võ Nguyên Giáp và các cố vấn Tầu tả tơi, VM bị thiệt hại nặng, 6,000 bị giết, bị thương 8,000, 500 bị bắt làm tù binh, Pháp tổn thất một nửa.
VM trộn trấu tưởng là Pháp sẽ không dám pháo hay oanh tạc nhưng không ngờ De Lattre táo bạo, thí quân cả hai bên. De Lattre tung vào trận địa các đơn vị trừ bị trưa 17-1 và cho ném bom napalm đã đẩu lui những đợt tấn công cuối cùng của VM.
De Lattre đã cứu được Vĩnh yên và Hà Nội, ông cho tổ chức duyệt binh để trấn an dân chúng. Sau đó Pháp củng cố phòng thủ chờ VM. De Lattre gấp rút cải tổ quân đội và thành lập nhiều liên đoàn lưu động tại BV để phòng thủ chống VM. (8)
Võ Nguyện Giáp thất bại nặng ở Vĩnh Yên, ngày 23-1 ông ta nhận sai lầm, cũng lên án các chiến binh thiếu can đảm, hèn nhát và ca ngợi dân công đã mang tới mặt trận 5,000 tấn thực phẩm, súng đạn (9)
Trận Mạo khê.
Tháng 3-1951 Tướng Giáp cho mở trận tấn công định chiếm vùng núi Đông triều ở Tây Bắc Hải Phòng. Pháp có ba căn cứ bảo vệ khu quân sự Mạo Khê: Một đồn trên đồi mỏ Mạo Khê, một đơn vị chiên xa đóng tại khu phố Mạo Khê, một đại đội đóng tại nhà thờ Mạo Khê, tổng cộng 400 người.
Phía VM gồm sư đoàn 308, 312, 316, đêm 23-3 VM tấn công hạ 7 đồn dọc theo tỉnh lộ 18. Đêm 26-3 De Lattre tiên đoán VM sẽ tấn công đồn Mạo Khê, ông huy động gửi 3 tiểu đoàn tới, cho hải đoàn xung phong vào sông Bạch đằng yểm trợ hải pháo. Một giờ khuya 27-3 VM pháo kích, tấn công đồn mỏ Mạo Khê, sau nhiều đợt tấn công nhưng binh sĩ trong đồn chống cự và đẩy lui các đợt xung phong.
Mười giờ sáng VM tấn công đồn và cả khu nhà thờ Mạo khê, quân Pháp có máy bay và hải quân yểm trợ nhưng VM rất đông, một máy bay Hellcat bị bắn hạ. Tối 27-3, VM mở cuộc tấn công chót vào đồn và khu phố Mạo khê, phá hủy ba chiến xa Pháp. Sáu giờ sáng VM rút lui và không chiếm được mục tiêu.
VM có 500 người bị giết, Pháp khoảng 200, đây là trận thứ hai của VM đánh vào đồng bằng, De Lattre coi đây là chiến thắng quan trọng
De Lattre sang Đông dương từ đầu năm 1951 tới nay được gần nửa năm đã phải đương đầu với hai trận lớn của VM. Sau trận thảm bại Cao Bắc Lạng, quân Pháp mất tinh thần nhưng De Lattre với chiến thuật táo bạo, dũng mãnh đã chuyển bại thành thắng nâng cao tinh thần chiến đấu quân sĩ. Ông cho lập phòng tuyến bảo vệ châu thổ BV, chuyển bớt các đơn vị đóng đồn không cần thiết thành những đơn vị lưu động.
Trận Bờ sông Đáy. (10)
Trận qui mô được Tướng Giáp chuẩn bị chu đáo phía VM đưa vào ba sư đoàn 304, 308 và 320, Pháp cũng huy động lực lượng lớn gồm: 3 liên đoàn lưu động, một liên đoàn thiết giáp, hai tiểu đoàn nhẩy dù, 3 hải đoàn, 4 tiểu đoàn pháo, 30 chiến đấu cơ. Một trận đánh kéo dài 26 ngày trên một chiến tuyến dài 80km gồm nhiều giai doạn. Sư đoàn 308 đánh Ninh Bình, sư đoàn 304 đánh Phủ lý, sư đoàn 320 đánh vào giáo khu Phát Diệm phía nam Ninh Bình
Gồm có 4 trận:
1- Ninh Bình (29-5 tới 30-5)
2- Yên Cư Hạ (4-6 tới 18-6)
3- Phát Diệm (8-6 tới 9-6)
4- Đông bắc Phủ lý (20-6 tới 23-6)
Tại trận Ninh bình VM để lại 350 xác chết , 153 súng trường, 40 tiểu liên, 12 trung liên, 2 đại liên, 9 súng cối. Phía người Pháp chết và bị thương 1,000 người, nhiều đại bác bị phá hủy, các tầu chiến bị hư hại, con trai De Lattre tử trận tại đây.
Trận Yên Cư Hạ từ 4-6 tới 18-6-1951, đây là một đồn kiên cố, xây bằng bê tông, có hàng rào kẽm gai. Tại trận này VM chết 200 người, hai đại đội Pháp giữ đồn chỉ còn vài chục người sống sót
Trận Phát Diệm từ 8-6 tới 9-6. Sư đoàn 320 vào giáo khu Phát Diệm, uy hiếp tinh thần, phô trương lực lượng.
Trận Đông Bắc Phủ lý từ 20-6 tới 23-6. Trận phản công qui mô của Pháp vào vùng Phủ lý, Ninh bình, VM bị thiệt hại rất nhiều
Qua các trận đánh thấy VM chưa thể thắng ở đồng bằng nhưng địch đã mạnh hơn trước. Hai bên tổn thất nặng. Pháp huy động nhanh các lực lượng tiếp viện hải, không quân.
Trận Hòa Bình
Tháng 9-1951, De Lattre chuẩn bị đánh Thanh Hóa nhưng đoàn tầu chở quân gặp bão nên phải quay về. De Lattre đổi ý cho đánh chiếm Hòa Bình, ông huy động 15 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn nhẩy dù, 2 liên đoàn thiết giáp, 7 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 2 hải đoàn xung phong . Cuộc hành quân Hòa Bình ngày 9-11-1951 gồm 3 lực lượng và chiếm tỉnh dễ dàng. VM huy động các sư đoàn 304, 308, 312 tới mặt trận.
Đầu tháng 12 VM gây áp lực quanh Hòa Bình qua trận Tu Vũ, Xóm Phèo, họ chiếm được đồn nhưng bị thiệt hại nặng, VM phục kích đoàn tầu trên sông và bộ binh Pháp trên đường số 6, tại trận Xóm Phèo VM thiệt hại nhiều
Salan thay thế De Lattre cho rút khỏi Hòa Bình, giữ Hòa Bình bất lợi vì địch có cao xạ bắn chính xác những máy bay hạ cánh, phục kích đoàn tầu. Binh lính hay bị sốt rét, chiến trường rừng núi không thích hợp với Pháp. Ngày 22-2-1952 bắt đầu rút để lo bảo vệ đồng bằng, tới 24-2 cuộc triệt thoái coi như chấm dứt
De Lattre chuyển bại thành thắng, lên tinh thần quyết tâm đánh Hòa Bình nhưng tại rừng núi nhiều bệnh tật, Pháp thua VM tại rừng núi nhưng thắng tại đồng bằng. Lên rừng mất ưu thế không quân, binh sĩ không chịu nổi khí hậu rừng núi. Hòa Bình là một thất bại cho Pháp
Trận Miền Thái từ 11-10-1952 tới 1-12-1952. Xứ Thái gồm Sơn La, Lai Châu. Lực lượng VM tấn công xứ Thái gồm các sư đoàn 308, 312, 316, sư đoàn pháo 351 và các đơn vị công binh. Ngày 17-10 sư đoàn 308 đánh đồn Nghĩa lộ trong đó có 700 quân Pháp, VM pháo dữ dội rồi xung phong chiếm đồn bắt nhiều tù binh. Các đồn ở miền này bị đánh, chiếm, VM làm tan rã hệ thống phòng thủ dọc sông Hồng.
Hành quân Lorraine.
Pháp mở cuộc hành quân Lorraine ngày 29-10-1952 nhằm tấn công các tuyến giao thông, cơ sở VM tại Việt Bắc. Trung Tướng Salan lên làm Tư lệnh thay thế De Lattre, ông giao cho Tướng Linares (Tư Lệnh BV) chỉ huy và điều động chiến dịch gồm 4 liên đoàn lưu động, 3 liên đoàn nhẩy dù, 2 tiểu đoàn bộ binh, 2 liên đoàn thiết giáp, 2 hải đoàn xung phong, 2 tiểu đoàn pháo, tổng cộng 30,000 người.
Pháp tảo thanh một vùng rộng lớn giữa sông Hồng và sông Đáy. Bộ chỉ huy đóng tại Việt Trì. Ngày 9-11 các tiểu đoàn nhẩy dù xuống bao vây Phủ Đoan, thị trấn bỏ ngỏ, Pháp chiếm được một kho quân nhu lớn. Ngày 14-11 tới Phủ Yên Bình cách Phủ Đoan 60 km về hướng Bắc không gặp kháng cự, không gặp người dân nào. Pháp mệt mỏi phải rút, VM cho 2 trung đoàn về đối phó. Ngày 17-11 Pháp lọt ổ phục kích VM dài 4km tại thung lũng Chấn Mương từ sáng tới 4 giờ chiều, Pháp nhờ không quân yểm trợ mới thoát ra khỏi, Pháp thiệt hại gần một tiểu đoàn
Pháo Lũy Nasan.
Trong khi ấy, Salan cho lập pháo lũy Nasan, ông chủ trương lập những cứ điểm mạnh dựa trên các sân bay hơn là mở những cuộc hành quân phiêu lưu
Nasan là một thung lũng dài 2km, ngang 1km, xung quanh có 24 ngọn đồi. Một vị trí chiến lược quan trọng giữa các đường tiến quân tại miền Thái, các ngọn đồi ngăn chận đường tiến quân VM, mục đích của chiến lũy.
1- Để đón các toán quân Pháp rút từ các đồn bị cô lập ở Tây Bắc và Đông Nam
2- Ngăn chận VM tiến về Lai Châu
3- Tiêu diệt chủ lực quân VM nếu họ tấn công
Mặt trận Pháp bị chia làm hai, một ở Nasan và một ở Lai Châu. Pháo lũy Nasan thiết lập đầu tháng 11-1952, được tăng cường ngày 1-11 khi các đơn vị Thái được đưa về đây, một liên đoàn lưu động VN được chở tới bằng máy bay. Ngày 21-11 có ba tiểu đoàn nhẩy dù các pháo đội được đưa tới. Cuối tháng 11-1952 pháo lũy Nasan gồm tổng cộng 10 tiểu đoàn trong đó có lính nhẩy dù, bộ binh, các tiểu đoàn Thái. Ngoài ra còn một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn pháo binh với 5 pháo đội, 2 chi đoàn thiết giáp, di chuyển khó khăn, bị hạn chế nên chỉ có 10 quân xa tiếp tế, tải thương. Đại tá nhẩy dù Gilles được giao chỉ huy mặt trận này
VM tấn công đêm 23-11-1952 nhưng bị đẩy lui, đêm 30 rạng 1-12 VM thật sự tấn công lớn nhưng thất bại. Đêm 1 rạng 2-12 VM mở cuộc tấn công quyết liệt suốt đêm, họ chiếm được hai điểm tựa 21bis và 22 bảo vệ sân bay. Pháo binh Pháp bắn liên tục, trận đánh kéo dài tới hôm sau. Pháp cho nhẩy dù xuống đỉnh đồi mới giải tỏa được , VM bỏ lại hơn 600 xác chết và tịch thu được nhiều súng, trận này VM bị thiệt hại nặng, sau đó VM chỉ pháo kích chứ không đánh. Tổng kết mặt trận Nasan Pháp cho biết VM bị mất 5,000 người. Trận miền Thái chấm dứt, Pháp giữ được Lai Châu, Nasan. Người Pháp cho rằng việc thiết lập pháo lũy Nasan là tốt và sau đó họ thiết lập thêm pháo lũy tại cánh đồng Chum, tại Séno, và cuối cùng tại Điện Biên Phủ đưa tới thất bại
Điện Biên Phủ.
Tháng 5-1953, chính phủ Pháp cử Đại Tướng Henri Navarre sang làm Tư lệnh Đông Dương thay Trung tướng Salan để cứu vãn tình hình quân sự tại đây. Ông cho lập một chiến lũy, một căn cứ lớn tại ĐBP
Theo Navarre (11) mục đích cho đóng quân tại đây để ngăn chận VM tiến đánh Thượng Lào và tạo mặt trận lớn để địch không đánh châu thổ BV. ĐBP là một khu lòng chảo có núi đồi bao quanh, là một cánh đồng dài 12 km rộng 9 km. Những đỉnh núi cao cách phi trường từ 10 tới 12 km, sẽ thiết lập đồn lũy quanh đó. Khoảng cách này ngoài tầm pháo của địch.
Chiến lũy ĐBP được xây dựng theo kiểu pháo lũy Nasan năm trước, Pháp tin tưởng cũng sẽ chống lại VM hữu hiệu và gây thiệt hại nặng cho đối phương. Navarre cho lập chiến lũy ngoài những mục tiêu kể trên còn để dụ VM lại giết một mẻ lớn làm suy yếu đối phương vì họ nay đã đông, mạnh hơn trước (12). ĐBP cách châu thổ BV 200 km, cách biên giới Tầu 300 km, cách Hà Nội 300 km.
Ngày 13-3-1954 trận đánh khởi đầu, Pháp có 12 tiểu đoàn, trong khi chiến trận diễn ra, Pháp cho nhẩy dù thêm 5 tiểu đoàn, tổng cộng toàn bộ vào khoảng 15,000 người. Phía VM tổng cộng có 5 sư đoàn chính qui vào khoảng 50,000 người, chưa kể 25,000 dân công tiếp tế . VM có 600 xe vận tải chở đạn dược tiếp liệu từ Trung Cộng sang ĐBP.
ĐBP chia làm ba khu, phía Bắc gồm hai căn cứ tại hai ngọn đồi, khu Trung ương gồm 5 trung tâm kháng cự và khu Isabelle ở phía Nam.
Hai tiền đồn phía bắc bị thất thủ vào ngày 13 và 14-3 sau một ngày giao chiến, hỏa lực địch quá mạnh, sau ngày 26-3 chỉ tiếp tế được bằng thả dù, số phận ĐBP đã được định đoạt. Tổng thống Eisenhower và các cố vấn đã nghiên cứu kế hoạch cứu nguy ĐBP bằng oanh tạc ồ ạt, Tòa Bạch ốc đã thảo luận, dự định trong suốt tháng 4-1954 nhưng kế hoạch bất thành.
Trận đánh kéo dài từ ngày 13-3 tới ngày 7-5 thì ĐBP thất thủ, 11 ngàn quân Pháp bị bắt làm tù binh, trên 2,000 bị giết chưa kể trên 2,000 mất tích, VM thiệt hại khoảng 10,000 người
Pháp thảm bại vì lực lượng địch đông gấp 4 lần, hỏa lực phòng không và pháo binh của VM do Trung Cộng cung cấp rất mạnh. Ngoài ra không quân Pháp thiếu khả năng yểm trợ cho một trận đánh quá lớn. Navarre chưa có kinh nghiệm về Đông Dương đã sai lầm cho lựa chọn trận đánh tại một địa điểm xa xôi chỉ tiếp tế được bằng máy bay mà thực ra không quân Pháp quá yếu, toàn chiến trường Đông Dương họ chỉ có chưa tới 200 máy bay.
ĐBP là trận đánh lớn nhất và quan trọng nhất trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất đồng thời cũng là một trong những trận đánh quan trọng trên thế giới.

Tình hình chính trị
Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền 19-8. Ngày 25-8-1945, vua Bảo Đại thoái vị, ông được Hồ chí Minh mời làm cố vấn. Tháng 9-1946 ông được đưa qua Trùng Khánh để tiếp xúc với Tưởng Giới Thạch, sau đó Cựu hoàng bỏ trốn qua Hồng Kông.
Khi đã chiếm được được các thành phố tại Trung châu Bắc Việt, Trung Việt, các tỉnh cao nguyên, Nam Bộ. Pháp bằt đầu chiêu dụ dân chúng, đón tiếp người hồi cư, trả lương cho công chức. Dân tản cư kéo về ngày một đông hơn, dân quê có, dân tỉnh hồi cư cũng có, họ không tin tưởng vào cuộc kháng chiến gian khổ và đẫm máu của Việt Minh
Người Pháp tính tới việc dùng chiến tranh tâm lý, chính trị để tranh thủ nhân tâm, họ cần một người ôn hòa, thân Pháp, được toàn quốc biết tới, giúp họ để chiêu dụ người dân. Cựu hoàng Bảo Đại là người đủ điều kiện và có thẩm quyền nhất, ông đã là vua, được nhân dân kính trọng, có tinh thần quốc gia và công nhận quyền lợi của người Pháp. Họ nghĩ tới cựu hoàng Bảo Đại và tìm cách mời ông về nước. Báo Thời sự ở Hà Nội đưa ý kiến thỉnh cựu hoàng hồi hương lãnh đạo phong trào Quốc gia chống Cộng và dành độc lập.
Nhiều cuộc biểu tình khá lớn để ủng hộ và yêu cầu cựu hoàng về nước cứu vãn thời cuộc như tại Huế ngày 12-8-1947, ở Hà nội ngày 1-9-1947 và cả Sài Gòn (13). Ngài đã là vua nay đứng đầu nước là lẽ tự nhiên , năm 1945 Ngài thoái vị để tránh đổ máu để bây giờ đất nước bị chiến tranh tàn phá.
Giải pháp Bảo Đại được nêu ra từ đầu 1947 nhưng hai năm sau mới thực hiện được.
Nhiều nhà cách mạng lưu vong taị Hồng Kông đề nghị cựu hoàng về gánh vác việc quốc gia, người Pháp cũng liên lạc với ông đề nghị tương tự nhưng ông vẫn dè dặt. Bảo Đại tuyên bố với phái đoàn quốc nội ra mời Ngài về nước, ông nói tôi vì hạnh phúc của dân mà thoái vị, nay nếu nhân dân lại muốn tôi giúp nước và điều đình với Pháp tôi sẽ sẵn sàng nhận để đòi hỏi độc lập thống nhất cho Việt Nam.
Ngày 6-12-1947 Bảo Đại nhận lời mời của Cao uỷ Bollaert và gặp ông tại vịnh Hạ Long để trao đổi nhận xét tình thế rồi lại về Hương Cảng. Ngày 19-12-1947 một phái đoàn gồm ông Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu sang Hương Cảng thúc dục Cựu hoàng về lãnh trọng trách, ông chấp nhận và nói còn phải sang Âu châu vận động
Kế hoạch thành tựu, ngày mồng 5-6-1948 trên một chiến hạm tại vịnh Hạ Long, Bollaert nhân danh chính phủ Pháp long trọng tuyên bố nước Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp. Cựu hoàng Bảo Đại xác nhận chính thức việc điều đình với Pháp trên căn bản đó và công nhận một chính phủ lâm thời do Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân điều khiển. (14)
Trong giai đoạn đầu chính phủ Quốc gia chưa có quyền, chỉ có tính cách tượng trưng, lo giúp dân hồi cư, mở trạm cứu thương, trường học, đáng kể là lập toà án, các đoàn cảnh vệ, trường Võ bị Huế, nơi huấn luyện sĩ quan Quốc Gia Việt Nam đầu tiên
Ngày 8-3-1949 tại điện Elysée, Cựu hoàng và Tổng thống Pháp Vincent Aurilole trao đổi văn thư thừa nhận Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 14-6-1949 Quốc Trưởng Bảo Đại hiệu triệu quốc dân tại toà Đô sảnh Sài Gòn sau khi miền Nam sáp nhập vào lãnh thổ Quốc gia, Cựu Hoàng kêu gọi nhân dân hãy đồng tâm nhất trí. Người dân cho rằng Pháp trả được phần nào hay phần nấy, nay Ngài đã về y như nhà có nóc.
Chính phủ Bảo Đại chấp chính từ tháng 7-1949 đến đầu năm 1950, kế đó là các chính phủ Nguyễn Phan Long 1950, Trần Văn Hữu 1950-1951. Chế độ không có hiến pháp mà chỉ có hai đạo dụ ngày 1-7-1949 về tổ chức công quyền. Quốc trưởng có quyền lập pháp, ban hành đạo dụ, Thủ tướng được ủy nhiệm do Quốc trưởng bổ nhiệm.
Từ 1947, cách đây hai năm, sau khi Pháp mở rộng các khu vực chiếm đóng tại các thành phố miền Bắc và Trung bộ, người dân trong vùng Việt Minh đã trở về các thành phố ngày một đông. Cửa hàng cửa hiệu đã đầy hàng hóa nhập cảng, Pháp tạo không khí sinh hoạt ổn định và lấy lòng dân. Nay Cựu hoàng về nước trị vì đã gây được niềm tin tưởng nơi người dân y như nhà có nóc mà núp, có cột mà dựa. Từ đấy dân chúng hồi cư tấp nập về thành thị, trong tháng 7-1949 mỗi ngày có vài nghìn người, riêng ngày 30-10 tại Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây số người trở về lên tới 35,000 người. Quân Pháp lan tràn kiểm soát vùng duyên hải đông dân như Bùi Chu, Phát Diệm ngày 16-10-1949. Công chức kéo về rất nhiều, chính giới Pháp Việt đã cho giải pháp Bảo Đại đem lại thắng lợi trước cảnh hồi cư đông đúc tại nhiều tỉnh miền Bắc, người dân bỏ già Hồ về với Cựu hoàng.
Diện tích vùng thuộc Pháp tại Trung châu tăng lên gấp ba, số ruộng cầy cấy tăng lên nhiều. Gạo xuất cảng từ 59,000 tấn năm 1945 tăng lên 379,000 tấn năm 1950, nhân công dồi dào, an ninh bảo đảm hơn, các ngành sản xuất than đá, vải sợi, xi măng, đường… đều tiến bộ. Trị giá nhập cảng năm 1946 là 16 tỷ đồng quan Pháp đến năm 1949 tăng lên 73 tỷ đồng. Hàng hoá tràn ngập các cửa tiệm, chợ búa, các ngành sản xuất cũng tiến hẳn lên, lương bổng công tư chức khá cao. Cựu hoàng về nước đem theo nhiều thuận lợi, vùng chiếm đóng nay là vùng Quốc Gia mở rộng dễ dàng, Việt Minh chỉ đột kích, khủng bố chưa có trận đánh lớn. (15)
Từ 1949, chính phủ Quốc Gia Việt Nam đã được một số khá đông các nước công nhận và đã bắt đầu bước vào chính trường ngoại giao, đã được gia nhập trên 30 cơ quan quốc tế với tư cách hội viên: Ủy hội kinh tế Viễn đông Ecafe, Tổ chức Y tế quốc tế, Lao động quốc tế, Lương nông Quốc tế, Văn hóa Quốc tế Unesco… Hoa kỳ đã đặt Phái bộ viện trợ quân sự từ ngày 6-3-1950, viện trợ thương mại từ tháng 7-1950, đã ký kết hiệp ước tương trợ Việt Mỹ.
Quân đội Quốc gia được thành lập và phát triển nhanh, năm 1950 mới có 5 tiểu đoàn, năm 1951 tăng lên 26 tiểu đoàn, năm 1953 lên 6 sư đoàn gồm 167,000 binh sĩ và 3,500 sĩ quan, lương bổng do chính phủ trả tượng trưng một ít còn lại do Mỹ đài thọ. Cấp chỉ huy được đào tạo tại các trường võ bị, trường Võ bị Liên quân Đà Lạt khai giảng 5-11-1950, trường Quân y thành lập 7-8-1950, trường Không quân thành lập 24-6-1951, trường Hải quân từ 1-1-1952. Các tổ chức quân sự khác cũng được thành lập như Toà án quân sự ngày 22-11-1951, Bộ Tổng Tham Mưu ngày 12-4-1952. Nhiều luật lệ quân sự được ban hành : Qui chế Quân đội Dụ số 1 ngày 30-1-1051, Bộ Quân luật Dụ số 8 ngày 14-4-51, Chế độ Quân dịch Dụ số 29 ngày 29-6-53.
Tổ chức Tư pháp và các Toà án Việt nam do Dụ số 4 ngày 18-10-1949, Qui chế các thẩm phán, do các Sắc lệnh ngày 1-12-1950, Toà án Hành chánh được thiết lập từ 5-1-1950.
Hành chánh địa phương: Các Hội đồng đô thành, thành phố và thị xã được tổ chức từ 1952.
Các tổ chức chuyên môn hành chánh như Viện thống kê ngày 10-12-1949, Việt Nam thống tấn xã ngày 22-1-1951, Quốc gia kiến ốc cục 15-6-1951, Sổ số kiến thiết Quốc gia 16-8-1951, Sở Du lịch Quốc gia 5-6-1951, Công ty hàng không 30-10-1951, Trường Quốc Gia Hành chánh 7-4-1952.
Giáo dục văn hoá: Trường Đại Học Văn Khoa, Sở Bảo tồn cổ tích ngày 4-1-1950, Trường Cao đẳng sư phạm 16-1-1950.
Kinh tế xã hội. Bộ Luật Lao động ban hành ngày 10-7-1952, Bộ luật cải cách điền địa ngày 4-6-53.
Qui chế nghiệp đoàn 16-11-1952; Qui chế Công chức Quốc gia Dụ số 9 ngày 14-7-1950; Qui chế các Hiệp hội Dụ số 10 ngày 6-8-1950; Qui chế Thể thao thanh niên Sắc lệnh 53 ngày 17-6-1950; Qui chế Hàng hải Dụ số 6 ngày 19-4-1951; Bộ luật thuế trực thu, gián thu Dụ số 4 ngày 13-4-1953….
Từ tháng 7-1949 đến tháng 7-1954 Quốc gia Việt Nam đã có 8 chính phủ và 5 vị Thủ tướng .
Chính phủ Bảo Đại Từ 1-7-1949 đến 22-1-1950, hơn 6 tháng
Chính phủ Nguyễn Phan Long từ 22-1-1950 đến 6-5-1950, hơn 3 tháng
Chính phủ Trần Văn Hữu từ 6-5-1950 đến 21-2-1951, 9 tháng rưỡi.
Chính phủ Trần Văn Hữu từ 21-2-1951 tới 7-3-1952, 12 tháng rưỡi.
Chính phủ Trần Văn Hữu 7-3-1952 tới 25-6-1952, 3 tháng18 ngày
Chính phủ Nguyễn Văn Tâm từ 25-6-1952 tới 8-1-1953, 6 tháng rưỡi
Chính phủ Nguyễn Văn Tâm từ 8-1-1953 tới 11-1-1954, 12 tháng 3 ngày
Chính phủ Bửu Lộc từ 11-1-1954 tới 7-7-1954, gần 6 tháng. (16)
Chính phủ Ngô Đình Diệm chấp chính từ ngày song thất 7-7-1954 đúng hai tháng sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ, hai tuần trước Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7, sau đó chính phủ Quốc gia rút vào Nam

Nhận xét và kết luận.
Việt minh cướp chính quyền năm 1945 và tiêu diệt các đảng phái thành phần yêu nước không Cộng Sản. Ngay từ đầu họ đã gây đổ máu giữa lòng dân tộc trong khi cần đoàn kết để đánh thắng thực dân.
Tướng Navarre, cựu Tư lệnh Đông Dương đã nhận xét về VM như sau : VM hoạt động mạnh tại Bắc phần, họ chờ Nhật thua trận để cướp chính quyền. Họ khéo léo được Mỹ giúp đỡ và dựa vào chính phủ lâm thời Pháp. Họ lấy cảm tình Mỹ, giả vờ là phong trào Quốc gia chống Nhật, chống thực dân. VM lấy lòng chính phủ Pháp mới (chính phủ thân đồng minh), họ lừa gạt chỗ này, bịp bợm chỗ nọ. Họ chống Nhật cho có hình thức để lấy lòng Mỹ (17)
Thật vậy VM tuyên truyền mạnh nên phong trào phát triển nhanh, đồng thời với tuyên truyền họ cũng kết hợp bạo lực cách mạng để ép buộc người ta theo. Như đã nói trên, cuộc tổng nổi dậy của VM cũng đã khiến mấy vạn người phải bị giết oan uổng trong đó có tình nghi, đảng phái Quốc gia không CS, những người thân Pháp. Phong trào VM không phải chỉ gồm toàn là người yêu nước như Tây phương nghĩ mà trong đó nhiều người theo VM vì sợ bị hãm hại.
Trước ngày Trung Cộng chiếm trọn nước Tầu tháng 10-1949, VM còn yếu. Súng đạn của họ một phần do Mỹ giúp để chống Nhật, phần do quân Nhật khi đầu hàng trao lại, họ mua súng lậu của Tầu, nhưng VM cũng đã tổ chức thành nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn và trung đoàn. Giai đoạn này họ tránh đụng chạm với Pháp và kiểm soát được vùng thôn quê.
Người Pháp mặc dù kiểm soát được nhiều thành phố,tỉnh lỵ nhưng thiếu quân số nên không bình định được hết các vùng của VM tại miền Bắc. Khi Mao Trạch Đông đại thắng tại chiến trường Hoa lục thì gió đã đổi chiều với thực dân Pháp. Việt Minh được Tầu giúp vũ khí, huấn luyện tại biên giới đã trở thành một lực lượng quân sự chính qui mạnh đủ khả năng tấn công đồng bằng Bắc bộ. Trận thắng lớn của VM tại Cao Bắc Lạng cuối năm 1951 mở đầu cho thất bại của thực dân Pháp tại Đông Dương.
De Lattre, Tư lệnh Đông dương từ cuối 1950 đã đánh bại được VM nhiều trận trong năm 1951 khiến quân Pháp lên tinh thần. Sang năm 1952 Tướng Salan lên thay De Lattre, VM ngày càng mạnh hơn, quân lưu động ngày một đông hơn Pháp. Giữa năm 1953, Tướng Navarre được cử sang thay Salan khi tình thế ngày càng bất lợi. Pháp quá mệt mỏi vì cuộc chiến sa lầy, trong khi VM được Trung cộng viện trợ quân sự ngày càng dồi dào, quân Pháp tại Đông dương không được tăng viện nhiều, đa số chi phí dựa vào viện trợ Mỹ.
Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7-5-1954 sau gần hai tháng cầm cự. Một phần vì sai lầm của Navarre, phần vì Không quân Pháp quá yếu. Toàn chiến trường Đông dương họ chỉ có khoảng 200 máy bay trong khi thập niên 60, 70 tại miền nam VN, không quân Mỹ có nhiều ngàn máy bay, chưa kể không quân VNCH. Hội nghị Genève tiếp theo ngay sau ĐBP đưa tới chia đôi đất nước ngày 20-7-1954.
Trong thời kháng chiến này người dân vùng thôn quê, thượng du vô cùng gian khổ, ban ngày quân Pháp hành quân bắn phá, cướp bóc hãm hiếp. Ban đêm VM về thu thuế, bắt bớ, thủ tiêu tình nghi phản động. Nhiều người trốn lên tỉnh để thoát khỏi cảnh một cổ hai chòng.
Giaỉ pháp Bảo Đại mang lại nhiều thành quả tốt đẹp, người dân từ các vùng lửa đạn đã trốn về thành, họ không tin tưởng cuộc kháng chiến đầy máu lửa của VM. Quốc trưởng Bảo Đại đã xây dựng được nền móng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam, tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa sau này. Người Pháp ngoan cố theo đuổi chính sách thuộc địa lỗi thời không những bị người bản xứ chống đối mà cả Hoa Kỳ và chính phủ Tưởng Giới Thạch đều không muốn Pháp trở lại Đông Dương. Đối với người Việt quốc gia, quân Pháp là đồng minh chống lại VM Cộng Sản, người Quốc gia tuy hợp tác với Pháp nhưng chỉ chờ thắng được VM để đòi Pháp trao trả độc lập. Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta năm 1945 nhưng họ cũng chiến đấu chống Cộng Sản bảo vệ chúng ta, xương máu của 75,500 chiến sĩ quân đội Liên hiệp Pháp đã giữ được một nửa nước VN tự do.
Cuộc chiến đẫm máu tám năm khói lửa do VM khởi xướng cuối năm 1946, chấm dứt giữa năm 1954 đã khiến khoảng 300,000 thanh niên tử trận, 500,000 bị thương, thường dân có 150,000 người thiệt mạng. Quân đội Liên hiệp Pháp có 75,500 người tử trận, Quân đội QGVN có 419,000 người gồm cả chết, bị thương và bị bắt (18). Miền Bắc đã trở thành bãi chiến trường, nhiều thành phố, tỉnh lỵ trung du, đồng bằng bị tàn phá.
Mấy năm sau miền nam cũng biến thành bãi chiến trường tàn khốc trong một cuộc chiến khác dài và đẫm máu hơn.
Trọng Đạt
Trích trong Điện Biên Phủ, Kế Hoạch Cứu Nguy, Nguyên Nhân Thất Thủ, in 2014
____
Chú thích
(1) Quân Sử 4, Quân lực VNCH Trong Giai Đoạn Thành Hình, Bộ TTM VNCH trang 11, 12
(2) Sách kể trên trang 95, 96
(3) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 15 nói chúng ta công nhận VN là một nước độc lập, có Quốc hội, Quân đội, Tài chính nằm trong Liên hiệp Pháp, đổi lại chúng ta được thay 200,000 quân Tầu bằng 15,000 quân Pháp phía trên vĩ tuyến 16
(4) Sách kể trên trang 17
(5) Quân sử 4 trang 46, 47, 48
(6) Quân sử 4 trang 124, Street Without Joy trang 32, 33
Trong bài Bataille de la RC4 (wikipedia) , Việt minh có 670 người bị giết, bị thương, Pháp 2,000 ngưòi tử thương, 3,000 bị bắt làm tù binh
(7) Street Without Joy trang 36
(8) Quân sử 125-128, Street Without Joy trang 37- 40
(9) Street Without Joy trang 40
(10) Quân sử 4 trang 133-144
(11) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine , trang 188-200
(12) Bernard Fall, Hell In A Very Small Place, Preface trang ix
(13) Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, Quyển thượng, 1939-1954, trang 144
(14) Sách kể trên trang 158, 160, 161
(15) Sách kể trên, trang 173,174
(16) Sách kể trên trang 206-210
(17) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 13

(18) Wikipedia, Yahoo.fr: Guerre d’Indochine

Không có nhận xét nào: