- Theo nhiều tính toán, có tới 500 cuộc phản kháng xảy ra ở Trung Quốc mỗi ngày, và những báo cáo không chính thức cho rằng con số này đang gia tăng
Xem thêm bài của Phạm Viết Đào:
- +Tập Cận Bình- Vương Hộ Ninh sao chép “chủ thuyết tập quyền" của Tần Thủy Hoàng-Lý Tư
- Vệ Ưởng
Tại Trung Quốc, nỗi sợ hãi về sự bất ổn xã hội từ lâu đã kiềm chế các nỗ lực của chính phủ hướng tới cải cách kinh tế và chính trị. Sau 3 thập kỷ tăng trưởng gần như không bị kiềm chế và không có tổ chức, các nhà lãnh đạo Trung Quốc giờ đây đang phải đối mặt với thời điểm mà trong đó sự thay đổi không còn đơn giản là mong muốn, mà đó là sự cần thiết. Hệ thống kinh tế toàn cầu đang tái cân bằng, sức mạnh kinh tế đang trở nên khuếch tán hơn, và nền kinh tế của Trung Quốc bị chi phối bởi xuất khẩu và đầu tư phần lớn đã thuận theo lẽ tự nhiên như những nước đi trước trong khu vực.
Bắc Kinh nói về việc chuyển sang một nền kinh tế dựa trên tiêu dùng trong nước – một nền kinh tế ít bị tổn thương trước những thay đổi bất thường của thương mại quốc tế và nhìn chung có khả năng tự lực nhiều hơn. Nhưng đó không phải là một thay đổi đơn giản, đặc biệt là ở một nước nơi chính phủ chỉ đạo rằng quá trình chuyển tiếp phải diễn ra trong một quãng thời gian rất ngắn. Nhiều thập kỷ dư thừa và thiếu hiệu quả trong nền kinh tế, tình trạng sản xuất dư thừa đáng kể trong một số khu vực và thiếu hụt trong các khu vực khác, văn hóa tư lợi cục bộ và tham nhũng tràn ngập khắp nơi sẽ làm phức tạp hơn nữa quá trình chuyển tiếp mong muốn.
Bất kỳ sự thay đổi cần thiết nào cũng sẽ dẫn đến thất nghiệp cao hơn, suy thoái kinh tế đáng kể, những thay đổi về cán cân quyền lực chung trong giới tinh hoa của Đảng. Hơn nữa, Đảng không còn có khả năng dựa vào công cụ cố kết xã hội của họ nữa – lời hứa hẹn rằng tất cả sẽ trở nên giàu có, dù là một số người sẽ trở nên giàu có sớm hơn – và thay vào đó nhấn mạnh vào “trạng thái bình thường mới” với mức tăng trưởng kinh tế thấp hơn và chậm hơn. Những hạn chế về di cư trong nước, khoảng cách ngày càng lớn giữa những lợi ích của các quan chức chính phủ trung ương và địa phương và một tầng lớp trung lưu vừa có nền tảng tương đối vừa tập trung sự chú ý của mình vào tầng nấc tiếp theo của các quyền lợi xã hội, đặc biệt là vấn đề môi trường, khiến Trung Quốc dễ có khả năng rơi vào chính sự bất ổn xã hội mà cho đến nay đã làm giảm bớt những cải cách kinh tế đáng kể.
Bất ổn xã hội và quyền lực tập trung
Theo nhiều tính toán, có tới 500 cuộc phản kháng xảy ra ở Trung Quốc mỗi ngày, và những báo cáo không chính thức cho rằng con số này đang gia tăng. Những tranh chấp lao động, những lời phàn nàn về hành động của cơ quan thực thi pháp luật địa phương, những cáo buộc về nạn tham nhũng và sự ngược đãi dưới bàn tay của các quan chức chính quyền địa phương, các vấn đề trở đi trở lại về quyền tôn giáo và sắc tộc, các vấn đề về môi trường và “không phải ở sân sau nhà tôi” (“Not in my back yard”) thúc đẩy nhiều trong số các cuộc phản kháng, với quy mô từ một nhóm nhỏ cho đến hơn 10.000 người tham gia. Việc quản lý tình trạng bất ổn trong dân chúng thể hiện một thách thức hơn nữa, mà ở đó các lợi ích địa phương và trung ương là khác nhau. Thông thường, cải cách kinh tế do Bắc Kinh chỉ đạo chỉ được thực hiện một cách hờ hững ở cấp địa phương, hoặc hoàn toàn bị phản đối, vì chúng có thể châm ngòi cho các cuộc khủng hoảng công ăn việc làm ở địa phương. Vào những thời điểm khác, các quan chức địa phương có thể tỏ ra rất nặng tay vì lợi ích chung của Bắc Kinh khi chính phủ trung ương tìm cách thay đổi hình ảnh của Đảng Cộng sản. Nhưng tình trạng bất ổn xã hội, bất chấp sự trỗi dậy của nó ở Trung Quốc, đã không vượt quá năng lực kiểm soát của nhà nước.
Việc củng cố quyền lực dưới quyền Chủ tịch và Tổng Bí thư Tập Cận Bình một phần là động thái nhằm vượt qua di sản của sự trì trệ về thể chế do nền chính trị dựa trên sự đồng thuận mà Đặng Tiểu Bình thiết lập nhằm làm giảm bớt những thay đổi bất thường của ban lãnh đạo kiểu Mao Trạch Đông để lại. Sự đồng thuận loại bỏ khả năng nhà lãnh đạo, thậm chí là tối cao, Đặng Tiểu Bình, đưa ra lộ trình dẫn dắt Trung Quốc trật khỏi đường ray quá xa. Quy tắc đồng thuận hoạt động hiệu quả vào thời điểm tăng trưởng và thịnh vượng về kinh tế, nhưng nó không hoạt động tốt như vậy khi cần phải đưa ra những quyết định cứng rắn và khi cần phải thực hiện những hành động nhanh chóng.
Xu hướng chung của việc lãnh đạo dựa trên sự đồng thuận là tránh bất ổn xã hội – tiết chế hơn đối với bất kỳ cải cách hoặc sáng kiến nào châm ngòi cho một phản ứng dữ dội của xã hội. Kiểu cải cách kinh tế “một bước tiến, hai bước lùi” vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000 là một trường hợp điển hình. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã hiểu được sự cần thiết phải thay đổi đáng kể cơ cấu kinh tế trong nước nhưng lại không sẵn sàng làm vậy, trì hoãn cải cách hoặc đưa ra những cải cách có hiệu quả rất nhỏ chẳng làm hài lòng ai và tạo ra những hệ quả kinh tế-xã hội không lường trước được. Mặc dù sự tư lợi về kinh tế của một số nhà lãnh đạo đóng vai trò nào đó trong điều này, nhưng mối quan ngại rằng các cải cách sẽ dẫn tới tình trạng thất nghiệp và phân bổ không đồng đều xã hội cũng vậy – một điều gì đó bị né tránh nhiều nhất.
Ý tưởng về một ban lãnh đạo tập trung là những quyết định cứng rắn không chỉ có thể được đưa ra mà còn được thực hiện. Chiến dịch chống tham nhũng rộng khắp của Tập Cận Bình là một phần của tính toán này vì nó phá vỡ mạng lưới các mối quan hệ bên trong Đảng mà các quan chức dựa vào đó vì sự an toàn và thăng tiến. Điều này được cho là sẽ làm đảo ngược sự chống đối của các chính quyền địa phương trước những chỉ đạo của chính phủ trung ương, với việc Bắc Kinh thực sự chấp nhận sự phân bổ xã hội không đồng đều hơn trong ngắn hạn và tự tin rằng họ phần lớn có thế quản lý được bất kỳ sự bất ổn nào. Cả việc kiểm soát phương tiện truyền thông trong nước lẫn thúc đẩy một ý thức dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ hơn đều là những công cụ quản lý, nhưng chúng ít có tác dụng dập tắt sự bất ổn xã hội hơn so với việc kiềm chế nó.
Mối quan ngại của Bắc Kinh không phải chỉ là tình trạng bất ổn xã hội; đó là một hiện tượng thông thường, và ở một đất nước nơi không có phương tiện pháp lý nào khác để bày tỏ sự chán nản hoặc bất đồng, một số lượng nào đó các cuộc phản kháng có thể được dùng làm “van xả”. Mối quan ngại lớn hơn là sự bất ổn xã hội vượt quá giới hạn khu vực và kinh tế-xã hội. Hàng trăm cuộc phản kháng không có mối liên kết có thể được giải quyết từng cái một như là những sự cố cục bộ, và mặc dù một số có thể kéo căng các lực lượng an ninh địa phương, nhưng phần lớn chúng đều có thể xử lý được. Nhưng các phong trào phản kháng có sự phối hợp ở trung ương, lan rộng khắp các khu vực và thuyết giảng về những mục tiêu không ủng hộ sự “thần thánh” của
Đảng trở thành mối đe dọa nghiêm trọng hơn đối với Đảng
Trung Quốc có một lịch sử gồm những phong trào xã hội nửa tôn giáo, các nhóm hiếu chiến và những cuộc nổi dậy nổi lên trong suốt thời kỳ xung đột chính trị và kinh tế. Từ phong trào Bạch Liên Giáo và Thái Bình Thiên Quốc tới Nghĩa Hòa Đoàn và Pháp Luân Công, những phong trào này được coi là một thách thức không phải chỉ bởi tính bạo lực (không phải tất cả đều bạo lực ngay từ đầu và Pháp Luân Công chưa bao giờ là phong trào bạo lực công khai) mà thay vào đó là bởi khả năng chúng có thể trở thành những trung tâm quyền lực cạnh tranh chống lại vai trò trung tâm của Đảng Cộng sản.
Khởi nghĩa Bạch Liên Giáo năm 1774 thu hút được sự ủng hộ từ những người làm phu và lao động trên tàu nói chung bất mãn với nguyên trạng. Khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, kéo dài từ năm 1853 đến năm 1864, thu hút được nhiều tầng lớp xã hội bất mãn, tất cả cuối cùng đoàn kết lại vì lợi ích của họ nhằm loại bỏ người Mãn Châu cầm quyền. Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900 xuất phát từ những người nông dân và người lao động bị tổn hại bởi điều kiện kinh tế đang trở nên tồi tệ hơn ở Trung Quốc và trong khi ban đầu chính phủ tìm cách lôi kéo những người nổi dậy này vào cuộc đấu tranh của chính họ chống lại chủ nghĩa đế quốc phương Tây, cuối cùng nó lại châm ngòi cho việc cướp phá Bắc Kinh và đẩy nhanh sự sụp đổ của Trung Quốc phong kiến. Pháp Luân Công có lẽ khiến Bắc Kinh sợ hãi nhiều hơn vì khả năng thu hút của nó được khoảng 10.000 cá nhân tồn tại lặng lẽ quanh các quan chức chính phủ ở Bắc Kinh. Thậm chí rắc rối hơn là thực tế rằng thành viên của nó bao gồm bất kỳ người nào từ những người lao động di cư cho tới các đảng viên nổi bật của Đảng.
Bắc Kinh được biết đến là đã đàn áp bất cứ thứ gì – từ các tổ chức tôn giáo tới các kế hoạch tiếp thị trực tiếp – mà có thể là một trung tâm quyền lực khác ngoài Đảng. Nỗi lo sợ là những tổ chức này, ngay cả thực chất không phải mang tính nổi dậy, có thể tạo ra những thực thể cố kết từ chối hoặc thậm chí là chủ động chống đối lại mệnh lệnh của Đảng. Trong hệ thống độc đảng, điều này là không thể dung thứ. Gần đây hơn, Trung Quốc đã chuyển sự chú ý sang nguồn chống đối có tính đoàn kết tiềm năng khác: chủ nghĩa môi trường. Tầng lớp trung lưu đang nổi lên của Trung Quốc đang phải đương đầu với những vấn đề và mối quan ngại tương tự như ở thế giới phát triển – các vấn đề về chất lượng cuộc sống, sự an toàn của không khí và nước và ô nhiễm nhà máy tràn lan. Đồng thời, người Trung Quốc ở nông thôn đang thách thức một cách đáng kể các chính quyền địa phương, các chính quyền đang lấy đất để xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là nhắm mục tiêu vào các nhà máy hóa chất và các nhà máy có khả năng gây ô nhiễm cao.
Chủ nghĩa môi trường ở cấp địa phương có thể chấp nhận được đối với Bắc Kinh, nhưng khả năng nó nhanh chóng trở thành một phong trào có nền tảng rộng khắp vượt qua giới hạn khu vực và tầng lớp đã khiến nó trở thành điều gì đó mà chính phủ phải giám sát chặt chẽ. Khá dễ dàng để kết nối những vấn đề cục bộ hóa – những lời phàn nàn về các nhà máy hoặc các quan chức địa phương cụ thể – thông qua đề tài rộng lớn hơn về không khí sạch, nước sạch hay thậm chí là những nỗ lực chống tham nhũng được chính phủ phê chuẩn. Những mối liên hệ có tính đoàn kết này thường là các luật sư giúp đỡ người dân địa phương hiểu được các điều luật, những quy định và con đường để họ chống đối. Trong suốt khoảng một năm qua, ngày càng có nhiều báo cáo về việc luật sư bị bắt giữ, một dấu hiệu cho thấy rằng Bắc Kinh ngày càng trở nên quan ngại.
Căng thẳng và phe phái chính trị nảy sinh
Mặc dù chính quyền địa phương quan ngại về các cuộc phản kháng địa phương, nhưng chính phủ trung ương lại ít lo lắng hơn nhiều về phạm vi hoặc thậm chí là quy mô của sự bất ổn; họ quan tâm nhiều hơn đến việc đảm bảo rằng tất cả các cuộc phản kháng vẫn mang tính cục bộ. Sự khác biệt này trong quan điểm đang bổ sung thêm cho xích mích vốn tồn tại giữa chính quyền địa phương và chính phủ trung ương nói chung.
Một trong những vấn đề với chiến dịch chống tham nhũng của trung ương là ở một mức độ nào đó, nó trở nên phản tác dụng. Chiến dịch chống tham nhũng được cho là nhằm buộc các quan chức địa phương phải tuân theo mệnh lệnh của trung ương hoặc phải đối mặt với việc bị loại bỏ. Các chính sách trung ương vì chỉ để làm vừa lòng Bắc Kinh đã bị phớt lờ hoặc bị chống đối quá nhiều lần. Chẳng hạn, có lúc những nỗ lực hợp nhất ngành công nghiệp thép bằng cách đóng cửa tất cả các nhà máy sản xuất dưới một ngưỡng nào đó đã dẫn tới sự gia tăng sản xuất thép so với việc đóng cửa các nhà máy. Nhưng có những báo cáo rằng giờ đây động lực chống tham nhũng đang có tác động ngược lại. Thay vì công khai thách thức Bắc Kinh để bảo vệ ngành công nghiệp địa phương và tránh tình trạng thất nghiệp ở địa phương, các quan chức đang trì hoãn việc thực hiện những dự án nhằm ngăn cho Bắc Kinh nhận thấy rằng khu vực địa phương có lẽ đang phát triển quá nhanh, và do đó những quan chức này đang bị nhắm mục tiêu trong các chiến dịch chống tham nhũng. Sự phối hợp giữa trung ương và vùng ngoại vi tiếp tục trở nên gay gắt.
Nhưng có lẽ rắc rối hơn cho Bắc Kinh là chiến dịch chống tham nhũng càng diễn ra lâu hơn và sâu sắc hơn, thì điều càng có khả năng xảy ra là nỗi sợ hãi và sự không chắc chắn trong cán bộ Đảng sẽ dẫn tới việc hình thành lại các phe phái thực sự nhằm bảo vệ các lợi ích chung. Những đồn đại và rò rỉ thông tin xung quanh vụ án Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang, bao gồm cả các kế hoạch được cho là nhằm chiếm quyền từ Tập Cận Bình, nêu bật quy mô của rủi ro này. Sự sùng bái cá nhân xung quanh Tập Cận Bình và sự củng cố việc ra quyết định có thể đem lại cho Bắc Kinh không gian để có những sự ứng phó nhanh chóng hơn và sức chịu đựng rủi ro lớn hơn, nhưng nó cũng khiến Tập Cận Bình dễ bị buộc tội rằng ông là người duy nhất bị chỉ trích vì thất bại, hoặc ít nhất là “người giơ đầu chịu báng” cho những người mà lợi ích của họ bị tước mất do những sáng kiến của Tập Cận Bình.
Chuẩn bị cho tương lai
Khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm mới và tiến gần tới Đại hội Đảng năm 2017, mà trong thời gian đó người có khả năng kế nhiệm Tập Cận Bình sẽ được lựa chọn, thì cường độ của các lợi ích cạnh tranh nhau sẽ tăng lên. Tất cả có thể nhất trí rằng Đảng vẫn phải là tối cao, nhưng các quan chức đang hướng tới một tương lai mà trong đó nhiều thập kỷ hứa hẹn và những cam đoan về ảnh hưởng kinh tế và chính trị trong tương lai không còn đáng tin cậy nữa và không còn có thể dựa vào các thỏa thuận bất thành văn nữa. Nếu người nào đó vào bất kỳ thời điểm nào bị vướng vào chiến dịch chống tham nhũng, và không còn có thể dựa vào mạng lưới rộng lớn các mối quan hệ để giảm bớt bất kỳ sự trừng phạt nào, thì khi đó hẳn phải có những cách khác để đảm bảo an toàn sau khi nghỉ hưu. Điều có có thể liên quan đến việc chạy trốn ra nước ngoài – một lựa chọn mà Tập Cận Bình đang tác động nhằm loại bỏ – nhưng nó cũng có thể liên quan đến việc xây dựng những mạng lưới quan hệ mới nhằm chống lại sự thay đổi một cách cố kết hơn. Ở đâu nhiều người có thể bị chia rẽ hoặc mâu thuẫn với nhau, ở đó những khối cố kết dường như có lẽ bền vững hơn. Nhưng chúng cũng tạo ra một mức độ rủi ro chính trị mới ở Trung Quốc.
Cải cách không dễ dàng cũng không nhanh chóng, và các cơ chế kiểm soát trung ương ở Trung Quốc đang bị thách thức nghiêm trọng. Biến động xã hội là điều dĩ nhiên trong các cải cách sâu sắc, và chính phủ cân bằng giữa việc cho phép sự bất đồng ở một mức độ nào đó để giải phóng áp lực với việc ngăn chặn sự thống nhất của các lợi ích mà có thể dễ dàng thách thức Đảng hơn nữa. Đồng thời, chiến dịch chống tham nhũng - cần thiết cho cả cải cách kinh tế lẫn kiểm soát chính trị - có thể nuôi dưỡng sự phản kháng ở cấp độ chính trị. Những cải cách bị trì hoãn lâu dài không còn là một lựa chọn nữa; khủng hoảng kinh tế đang ở ngay trước mặt, và Bắc Kinh không thể ngừng cải cách vì họ đang ở vị thế bấp bênh. Tuy nhiên, trong lĩnh vực chính trị gây tổn hại lẫn nhau, điều không công khai là cuộc khủng hoảng thực sự có thể sắp xảy đến. Tình trạng bất ổn xã hội là một vấn đề mà chủ nghĩa phe phái chính trị có thể gây bất ổn./.
Theo “Stratfor”
Nhật Linh (gt)
(Nghiên Cứu Biển Đông)
Quân đội Trung Quốc tập trận bắn đạn thật trên biển Đông. Ảnh: 81.cn
Biển Đông: Nhật-Ấn lần đầu bắt tay, Bắc Kinh lọt vào "gọng kìm"
Hải Võ |
Trung Quốc bày tỏ thất vọng trước việc Nhật Bản và Ấn Độ lần đầu tiên đưa vấn đề biển Đông vào tuyên bố chung của lãnh đạo hai nước.
Trong chuyến công du Ấn Độ, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe hôm 13/12 đã cùng Thủ tướng nước chủ nhà Narendra Modi phát biểu tuyên bố chung.
Hai nhà lãnh đạo khẳng định "tuyến giao thông biển Đông có ý nghĩa quan trọng đối với an ninh năng lượng cũng như hòa bình thịnh vượng của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương" và kêu gọi "tất cả các nước tránh hành động đơn phương làm leo thang căng thẳng".
Báo Indian Express của Ấn Độ chỉ ra, đây là lần đầu tiên Nhật-Ấn thống nhất quan điểm về vấn đề biển Đông trong tuyên bố chung. Theo tờ này, trong 2 bản tuyên bố chung giữa 2 nước hồi năm ngoái đều không đề cập đến biển Đông.
Theo Wall Street Journal (Mỹ), việc ông Modi tỏ thái độ ủng hộ ông Abe là một trong những động thái cho thấy phản ứng ngày càng cứng rắn của cộng đồng quốc tế châu Á trước hành động bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông.
Người phát ngôn Bộ ngoại giao Nhật Bản Yasuhisa Kawamura thì nói rằng Trung Quốc không liên quan trong vấn đề "lợi ích quan trọng của Nhật-Ấn" và khuôn khổ hợp tác của 2 nước này "không nhằm vào nước thứ ba".
Dù vậy, theo Đa Chiều (Mỹ), trước tuyên bố của 2 ông Abe-Modi, giới quan sát nhận đỉnh phổ biến rằng Ấn Độ đang liên kết với Nhật Bản tạo thành thế "gọng kìm" bao vây Trung Quốc.
Truyền thông Trung Quốc đánh giá mục đích lớn nhất của Shinzo Abe trong chuyến công du vừa qua là "tiếp thị" cho dự án tàu cao tốc của Nhật Bản.
Được biết, Thủ tướng Nhật đã ký kết được thỏa thuận trị giá 14.9 tỉ USD, trong đó Ấn Độ chi trả cho Tokyo ít nhất 13.7 tỉ USD. Đáng chú ý là, Nhật Bản giành được dự án lớn này sau khi đánh bại phương án từ đối thủ cạnh tranh trực tiếp là Trung Quốc.
Trong khi đó, tuyên bố "hạn chế hành động đơn phương" trên biển Đông được cho là sự chỉ trích nhằm vào hoạt động bồi lấp, xây dựng đảo nhân tạo mà Bắc Kinh tiến hành trái phép trên biển Đông.
Đa Chiều cho rằng, việc New Delhi đồng ý thể hiện quan điểm nhất trí với Tokyo trong vấn đề biển Đông cũng là động thái cho thấy Ấn Độ đang nỗ lực nhiều hơn hơn để được công nhận là một nước lớn tầm cỡ thế giới, thay vì "nước lớn trong khu vực" như hiện tại.
Tuyên bố chung với Nhật Bản, ở một mức độ nào đó, chắc chắn sẽ làm nổi bật hơn sự hiện diện của quốc gia Nam Á này ở Tây Thái Bình Dương.
Đối với New Delhi, sự hiện diện của Trung Quốc trên Ấn Độ Dương bị xem là hành động bao vây Ấn Độ và hiện thực hóa "chiến lược chuỗi ngọc trai".
Đây là chiến lược mà Bắc Kinh vẫn phủ nhận sự tồn tại của nó, nhằm gia tăng ảnh hưởng địa chính trị thông qua tiếp cận các cảng và sân bay, phát triển các quan hệ ngoại giao và hiện đại hoá quân sự từ biển Đông thông qua eo biển Malacca, qua Ấn Độ Dương, và đến vịnh Ba Tư.
Bên cạnh tình hình căng thẳng biên giới Trung-Ấn, New Delhi cũng tỏ rõ sự bất mãn trước việc Trung Quốc duy trì quan hệ tốt với Pakistan, "đối thủ truyền kiếp" của họ.
Đa Chiều nhận định, việc tỏ thái độ tích cực hơn trong vấn đề biển Đông không chỉ giúp Ấn Độ tạo dựng tiếng nói trên trường quốc tế mà còn là đòn trả đũa nhằm vào Bắc Kinh.
Trên thực tế, tuyên bố chung Abe-Modi không phải là văn kiện đầu tiên mà Ấn Độ lên tiếng về các vấn đề trên biển trong khu vực và thái độ của chính phủ nước này về cơ bản là nhất quán.
Hồi tháng 1/2014, khi tình hình châu Á còn căng thẳng do vụ Trung Quốc lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở biển Hoa Đông vào tháng 11/2013, ông Abe cũng công du Ấn Độ và ra tuyên bố chung tương tự.
Trong đó, 2 ông nói rằng "tự do hàng hải, hàng không trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng". Tuyên bố này được truyền thông quốc tế khi đó lý giải là phản đối việc Bắc Kinh lập ADIZ.
Ngày 30/9/2014, Thủ tướng Modi cùng Tổng thống Mỹ Barack Obama cũng khẳng định trong tuyên bố chung rằng Mỹ-Ấn "quan ngại trước tình hình biển Đông ngày càng căng thẳng, kêu gọi tránh sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực".
Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (trái) và Thủ tướng Nhật Shinzo Abe
Chuyên gia Trung Quốc: Tuyên bố Nhật-Ấn "không có ý nghĩa thực chất"
Chuyên viên cấp cao Hứa Sâm thuộc Viện nghiên cứu hợp tác và an ninh biển Hải Nam, Trung Quốc bình luận trên Thời báo Hoàn Cầu cho rằng, tuyên bố chung của Nhật Bản và Ấn Độ "không mang ý nghĩa thực chất bởi 2 nước này không phải các bên liên quan trực tiếp ở biển Đông".
"Hành động đơn phương tạo thành căng thẳng trên biển Đông chưa từng xuất phát từ phía Trung Quốc," Hứa Sâm hùng hồn tuyên bố.
Ông Hứa nhắc lại những chỉ trích gần đây của truyền thông Trung Quốc nhằm vào Thủ tướng Nhật Abe, cho rằng nhà lãnh đạo Nhật Bản đang tìm cách lôi kéo các quốc gia khác nhằm cân bằng sức mạnh với Bắc Kinh.
"Đối với Ấn Độ mà nói, việc ra tuyên bố chung theo kiểu 'chọn bên' cùng Nhật trong vấn đề biển Đông là sự lựa chọn không sáng suốt," Hứa nói.
Trang ABP của Ấn Độ hôm 13 nhận định, các cuộc đàm phán về dự án tàu cao tốc hay năng lượng hạt nhân cho thấy mọi mối quan hệ hợp tác giữa Tokyo và New Delhi đều không giới hạn ở "hợp tác đơn thuần" mà có liên quan tới Trung Quốc.
Tờ này gọi Trung Quốc ở thời điểm hiện tại là vấn đề lớn đối với cả Nhật lẫn Ấn Độ mà song phương từ trước đến nay vẫn chưa nhìn nhận đúng.
Đối với Tokyo, Bắc Kinh hiện "là mối đe dọa lớn nhất và duy nhất. Còn New Delhi dù không đối địch mạnh với Trung Quốc nhưng luôn tin rằng nước này là nguy cơ tiềm ẩn về an ninh.
theo Trí Thức Trẻ
Kim Jong Un có lý do khiến Bắc Kinh phải e sợ vụ ban nhạc bỏ về?
Kiều Tỉnh |
Quan hệ hữu nghị Trung-Triều đã lạnh nhạt nay lại phủ thêm bóng đen sau "sự cố" ban nhạc Moranbong bỏ diễn ở Trung Quốc cùng tuyên bố "sở hữu bom khinh khí" của Kim Jong Un.
Moranbong thăm Trung Quốc: Sự kiện văn hóa mang đậm màu sắc chính trị
Ban nhạc nữ Triều Tiên Moranbong theo lời mời của phía Trung Quốc sang biểu diễn tại Bắc Kinh 3 ngày từ 12-14/12.
Nhưng chỉ cách thời gian khai mạc buổi công diễn đầu tiên 4 tiếng đồng hồ vào đêm 12/12, thì đột nhiên buổi diễn bị hủy bỏ và đoàn ra về lúc 16h07 phút bằng máy bay, lúc 18h34 phút về tới Bình Nhưỡng.
Sau chuyến thăm Triều Tiên của Ủy viên thường vụ Bộ chính trị Trung Quốc Lưu Vân Sơn vào tháng 10/2015 nhân kỉ niệm 70 năm ngày thành lập đảng Lao động Triều Tiên, dư luận các nước đều cho rằng quan hệ hai nước đã bắt đầu tan băng.
Không khí hòa dịu và nồng ấm giữa Trung-Triều tăng lên, trong đó nổi bật nhất là thông tin Moranbong sang thăm Trung Quốc và biểu diễn trong hoạt động giao lưu văn hóa.
Dư luận cho rằng, việc nhóm nhạc sang Trung Quốc biểu diễn do chính Chủ tịch Tập Cận Bình kiến nghị trong thư gửi nhà lãnh đạo Kim Jong Un mà ông Lưu Vân Sơn đóng vai trò "sứ giả".
Bởi vậy, chương trình biểu diễn này mang nặng sắc thái chính trị trong bối cảnh quan hệ hai nước hiện nay chứ không đơn thuần là một hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
Sự kiện này khiến dư luận các nước cảm thấy ngạc nhiên, tuy nhiên nhìn sâu bên trong quan hệ hai nước mấy năm qua cũng như thời gian gần đây thì có thể thấy được thực chất của sự kiện này.
Lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, thể thao nói chung ở nhiều nước trên thế giới mang đậm màu sắc thưởng thức nghệ thuật và vui chơi giải trí hơn.
Nhưng ở một số nước như Trung Quốc, Triều Tiên thì các hoạt động này gắn liền với ý nghĩa chính trị, ngoại giao, nhất là đối với Moranbong.
Moranbong được thành lập vào tháng 7/2012 do chính chỉ thị của Kim Jong Un, với loại hình âm nhạc chủ yếu là những bài ca cách mạng ca ngợi đất nước cùng lãnh đạo Triều Tiên.
Đặc biệt ban nhạc có những diễn viên nổi tiếng và được trang bị nhạc cụ hiện đại vào bậc nhất thế giới. Nhóm cũng được Hãng thông tấn trung ương Triều Tiên KCNA đánh giá “Moranbong-Hàng đầu thế giới”.
Chuyến đi Trung Quốc vừa qua vốn dĩ là là chuyến công du nước ngoài đầu tiên của đoàn, đồng thời là lần đầu tiên Moranbong biểu diễn ở nước ngoài.
Bởi vậy, ông Kim cũng như dân chúng Triều Tiên rất coi trọng chuyến đi Trung Quốc lần này của đoàn, cho rằng đây là sợi dây hữu nghị gắn nối giữa hai nước.
Trung-Triều rõ ràng từng kỳ vọng chuyến công diễn lần này sẽ làm song phương hiểu biết nhau hơn và tăng thêm hữu nghị.
Báo chí Trung Quốc cho biết Đại sứ quán Triều Tiên đã gửi hơn 2000 giấy mời tới đoàn ngoại giao và các cơ quan đoàn thể Trung Quốc dự buổi công diễn đầu tiên của Moranbong.
Dư luận Trung Quốc cho rằng “có tiền tới mấy cũng không thể mua được vé vào cửa”. Bởi vậy, ngay sau khi có tin buổi biểu diễn bị hủy bỏ, dư luận Trung Quốc cảm thấy hẫng hụt và bắt đầu đặt câu hỏi nguyên nhân sâu xa nào dẫn tới sự cố trên.
Dư luận cho rằng việc hủy bỏ biểu diễn này rất có thể do chỉ thị trực tiếp của lãnh tụ Kim Jong Un vì ông cho rằng phía Trung Quốc đã đụng chạm tới sự tôn nghiêm của phía Triều Tiên. Sau khi đoàn bỏ về, cả hai nước đều chưa đưa ra lời giải thích chính thức nào.
Hiện nay chỉ thấy phía Trung Quốc đưa ra phát biểu của Tân Hoa Xã ngày 13/12 nhưng rất chung chung, mập mờ và không có sức thuyết phục.
Hãng thông tấn Trung Quốc cho hay: “Do nguyên nhân phối hợp chưa ăn ý giữa hai bên, nên đoàn Triều Tiên không thể công diễn theo thời gian biểu đã định”. Còn phía Triều Tiên chỉ cho biết: “Nguyên nhân không thể nói được”.
Ban nhạc Moranbong tới Trung Quốc cùng Đoàn hợp xướng công huân Triều Tiên trong chương trình giao lưu văn hóa hai nước. Ảnh: Shanghaiist
Moranbong sang Trung Quốc ngày 9/12 tại tỉnh Liêu Ninh thì KCNA ngày 10/12 đưa tin, khi thăm quan di tích lịch sử cách mạng ở Bình Nhưỡng lãnh tụ Kim Jong Un tuyên bố: “Tổ quốc chúng ta đã có vũ khí hạt nhân và bom khinh khí để tự vệ”.
Dư luận thế giới đều ngạc nhiên về tuyên bố này và tác động ngay tới Trung Quốc, thể hiện qua những diễn biến có phần phức tạp trong các thông báo từ Bộ ngoại giao nước này.
Sau khi đoàn văn công bỏ về, phía Trung Quốc chủ động xóa bỏ thông tin "chuyến thăm của đoàn Moranbong thể hiện phía Triều Tiên coi trọng quan hệ hữu nghị với Trung Quốc” trong thông cáo báo chí của phát ngôn viên Hoa Xuân Oánh.
Các báo cho biết ngay sau đó Trung Quốc liền hạ cấp tham dự biểu diễn xuống “Thứ trưởng Bộ Văn hóa”, hơn nữa báo chí nước này lại đổ lỗi rằng chuyến công diễn của Moranbong do phía “Triều Tiên chủ động đề nghị”. Điều này làm Bình Nhưỡng cảm thấy bị xúc phạm.
Trong khi đó, một trường hợp là nhà lãnh đạo Kim Jong Un hoàn toàn nghiêm túc và thực tế với tuyên bố của mình về vấn đề sở hữu bom khinh khí.
Dù chưa được các bên xác nhận, nhưng khả năng liên quan giữa vụ Moranbong bỏ diễn ở Trung Quốc với tuyên bố của ông Kim là rất lớn.
Với nhận định "Kim Jong Un là người có khả năng ra lệnh rút đoàn về nhất", thì hoàn toàn có thể đặt giả thuyết rằng Bình Nhưỡng "đã có đủ tự tin để không e ngại trước Bắc Kinh" với tuyên bố về bom khinh khí của nhà lãnh đạo này.
Ủy viên Bộ chính trị Trung Quốc Lưu Vân Sơn (trái) đích thân trao thư của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cho lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un trong chuyến công du hồi tháng 10. Ảnh: Xinhua
Sợi dây hữu nghị Trung-Triều chưa căng đã đứt
Dư luận Trung Quốc và các nước cho rằng, mối quan hệ hai nước thời gian tới lại đứng trước ba thách thức lớn sau:
- Một là, địa vị và giá chiến lược của Triều Tiên đối với Trung Quốc có thể bị thay đổi. Phía Trung Quốc cho rằng Triều Tiên hiện nay là nước không thể hiểu nổi và đã không nghe lời Trung Quốc như trước đây.
Từ đó, Trung Quốc sẽ rất khó dự đoán được diễn biến tình hình chính trị và các mặt của Triều Tiên. Vậy giá trị và địa vị chiến lược của Triều Tiên sẽ ra sao trong địa chiến lược ở Đông Bắc Á.
- Hai là, quan hệ hai nước sẽ lạnh nhạt hơn, chuyến thăm Trung Quốc của ông Kim Jong Un mà báo chí Trung Quốc dự kiến trước đây sẽ trở nên rất xa vời và mù mịt.
- Ba là, dư luận hoài nghi về năng lực ngoại giao của ông Tập Cận Bình.
Ngày 25/11, ông đã đưa Tống Đào đảm nhiệm chức Trưởng ban đối ngoại trung ương thay Vương Gia Thụy để cải thiện quan hệ Trung-Triều, mời đoàn Moranbong sang biểu diễn thì nay đã thất bại. Dư luận Trung Quốc sẽ đánh giá thế nào về tài năng ngoại giao của ông.
Trong bài “Trung Quốc cần suy nghĩ sâu sắc hơn về sự kiện này” hôm 13/12, cựu Chủ nhiệm Văn phòng công tác Triều Tiên thuộc Bộ ngoại giao Trung Quốc Dương Hy Vũ cho rằng Bắc Kinh cần nói rõ nguyên nhân vụ Moranbong chứ không thể giải thích "cho có" như Tân Hoa Xã.
Ông Dương cho rằng đây là sự kiểm nghiệm về khả năng lãnh đạo của chính phủ. Trung Quốc có cơ quan ngôn luận chính thức, nhưng đã để cho những tin đồn thất thiệt chi phối cơ quan tuyên truyền, cho thấy khả năng quản lý báo chí còn nhiều vấn đề bất cập.
Ông Đặng Duật Văn, Phó Tổng biên tập tờ “Thời báo học tập” của Trung Quốc cho rằng: "Báo chí Trung Quốc đã quá xem thường ý nghĩa chính trị chuyến thăm của Đoàn Moranbong, đây cũng là nguyên nhân dẫn tới thất bại về chuyến công du này của Đoàn.”
Cho dù nguyên nhân nào, thì sự thực là quan hệ hai nước thời gian tới sẽ đứng trước thách thức mới và tình hình bán đảo Triều Tiên thời gian tới sẽ xấu đi.
Vai trò của Trung Quốc ở bán đảo này bị giảm sút. Đây sẽ là một nguy cơ đáng kể về địa chính trị đối với Trung Quốc ở khu vực Đông Bắc Á./.
theo Trí Thức Trẻ
Sự im lặng của Lầu Năm Góc về các hoạt động thật khó hiểu, nó dẫn đến sự nhầm lẫn không chỉ về những gì đã diễn ra mà còn cả chiến lược của Mỹ.
The Hill ngày 16/12 dẫn lời Thượng nghị sĩ John McCain, Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ cho biết, ông đang hối thúc Lầu Năm Góc cung cấp thêm chi tiết về một cuộc tuần tra hải quân hơn 1 tháng trước đây ở Biển Đông.
Thượng nghị sĩ John McCain, ảnh: AP.
"5 tuần để trả lời một lá thư đơn giản là thời gian quá dài. Cho dù sự chậm trễ này là kết quả quản lý vi mô của Hội đồng An ninh quốc gia hoặc sự quan liêu của Lầu Năm Góc, thì dù sao nó cũng không thể chấp nhận được", ông McCain tuyên bố.
Tháng trước Thượng nghị sĩ McCain đã gửi thư cho Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter và yêu cầu Lầu Năm Góc công khai làm rõ ý định của hoạt động tuần tra gần quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa, Việt Nam). Ông yêu cầu các thông tin càng sớm càng tốt.
"Với những động thái chính trị nhạy cảm và ý nghĩa pháp lý chi tiết trong các hành động của chúng tôi, điều quan trọng là sẽ không để cho có sự hiểu lầm về mục tiêu của chúng tôi ở cả hai khu vực châu Á - Thái Bình Dương hoặc cộng đồng quốc tế", ông viết.
Trong tháng 10, hải quân Mỹ điều động tàu khu trục mang tên lửa USS Lassen tuần tra bên trong 12 hải lý của bãi Xu Bi, nhưng quan chức Bộ Quốc phòng Mỹ không muốn giải thích về hoạt động này. Trong khi đó có những thông tin cho rằng, hoạt động của USS Lassen ở Xu Bi không phải là "đi lại tự do", mà là "đi qua vô hại", một hoạt động của tàu thuyền nước ngoài bên trong lãnh hải 12 hải lý nước khác.
Thượng nghị sĩ John McCain yêu cầu phải làm rõ điều này, việc Lầu Năm Góc tiếp tục im lặng có thể dẫn đến các thông điệp lẫn lộn
"Sự im lặng của Lầu Năm Góc về các hoạt động thật khó hiểu, nó dẫn đến sự nhầm lẫn không chỉ về những gì đã diễn ra mà còn cả chiến lược của Mỹ. Đó là lý do tại sao tôi đã gửi một lá thư ngắn đến Bộ trưởng Carter để yêu cầu ông làm rõ một số thông tin cơ bản về các hoạt động này. 5 tuần sau tôi vẫn chưa nhận được câu trả lời."
Hồng Thủy
(Giáo Dục)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét