Ghi
chép về địa lý trong các bộ chính sử do các triều đại phong kiến Trung Quốc
biên soạn
Trong các bộ chính sử của các triều đại
phong kiến Trung Quốc như Hán
thư, Đường thư, Tống sử, Nguyên sử, Minh sử vàHoàng triều thông điển (đời nhà Thanh) đều có chương hoặc
sách riêng viết về địa lý và giới hạn cương vực của Trung Quốc gọi là
"Dư địa chí". Các chương hoặc những bộ sách này chép đặc điểm địa
lý Trung Quốc theo từng đơn vị hành chính, cho đến cấp huyện.
Những ghi chép địa lý về phạm vi cương
vực của Trung Quốc tại vùng lãnh thổ tiếp giáp với Nam Hải (biển Đông) được
thể hiện đặc biệt rõ ràng trong Đại nguyên nhất thống chí (Địa chí nước Đại
Nguyên thống nhất), Đại Minh thống nhất chí (Địa chí nước Đại Minh thống
nhất) và Đại Thanh nhất thống chí (Dư địa chí nước Đại Thanh thống nhất).
Ảnh minh họa: Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, một tài liệu ghi nhận
chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam.
Đại nguyên nhất thống chí ghi rõ:
“Lộ Quỳnh Châu: Lãnh 7 huyện gồm Quỳnh Sơn, Trừng Mại, Lâm Cao, Văn
Xương, Lạc Hội, Hội Đồng, Định An.
Núi sông:
Lạc Vân Lĩnh: ở huyện Lâm Cao
Nam Lai Lĩnh: ở huyện Văn Xương, nam 35 dặm
Bao Hỗ Lĩnh: ở huyện Văn Xương
Đồng Cổ Lĩnh: ở huyện Văn Xương, tục
truyền dân lấy được trống đồng, xét nghiệm thấy đây là cái chuông mà Gia
Cát vũ hầu dùng để đi đánh dẹp người Man, nhân đó đặt là Đồng Cổ Lĩnh (Núi
Trống Đồng).
Thất Tinh Lĩnh: ở huyện Văn Xương,
gần bờ biển, hình thế như chuỗi hạt trai.
Nam Sơn Nham: trong địa giới lộ Quỳnh Châu
Quân Vạn An: Lãnh 2 huyện gồm huyện Vạn An, huyện Lăng thuỷ
Quân Cát Dương: Lãnh 1 huyện Ninh Viễn.
Núi Sông:
- Tài
Lang Lĩnh: ở huyện Ninh Viễn, quân Cát Dương, còn nói là ở Nhai Châu, cách
thành 3 dặm, tức là nơi Rùa Đá.
Chung Diên Lĩnh: ở huyện Ninh Viễn
Quân Cát Dương (Quyển 10).”
Không phần nào trong sách này chép địa danh “Thiên Lý
Trường Sa”, “Vạn Lý Thạch Đường”.
Đại Minh thống nhất chí ghi rõ :
“Phủ Quỳnh Châu:
Sắp đặt hành chính: Lãnh 3 châu 10
huyện: Quỳnh Sơn, Trừng Mại, Lâm Cao, Định An, Văn Xương, Hội Đồng, Lạc
Hội, Đảm Châu, Xương Hoá, Vạn Châu, LăngThuỷ, Nhai Châu, Cảm Ân.
Hình thể: nằm trong biển, rộng ngàn
dặm, quận nằm trong biển cả, Châu Nhai như vựa thóc lớn, phía nam nhìn về
Liên Sơn, như có như không, bốn quận một đảo, nước triều có khác, giữa là
Lê Động (nơi dân tộc Lê cư trú).
Phần “Núi sông” không thấy chép địa danh “Thiên Lý
Trường Sa”, “Vạn Lý Thạch Đường” (quyển 82).”
Đại Thanh nhất thống chí ghi rõ cương vực Phủ Quỳnh
Châu như sau:
“Phủ Quỳnh Châu:
Sắp đặt hành chính: thuộc tỉnh Quảng
Đông, lãnh 3 châu 10 huyện: Quỳnh Sơn, Trừng Mại, Định An, Văn Xương, Hội
Đồng, Lạc Hội, Lâm Cao, Đảm Châu, Xương Hóa, Vạn Châu, Lăng Thủy, Nhai
Châu, Cảm Ân.
Hình thể: nằm trong biển, rộng ngàn
dặm, quanh co hơn hai ngàn dặm, ngang 800 dặm, bốn châu mỗi châu chiếm một
góc đảo, ngoài giáp biển cả, trong là Lê Động”
Phần “Núi sông” không chép địa danh “Thiên Lý Trường
Sa”, “Vạn Lý Thạch Đường” (quyển 452-453).
Các bộ sách địa chí nói trên đều do quan
chức hai viện Hàn lâm, Quốc sử quán triều đình biên soạn và được trình lên
vua "Ngự lãm" (duyệt). Có bộ địa chí còn có lời tựa của nhà vua,
như Đại Minh nhất thống
chí và Đại Thanh nhất thông chí.
Đây là những công trình được biên soạn công phu bởi bộ biên tập gồm hàng
trăm người được kiểm tra hết sức kỹ lưỡng và cuối cùng còn được nhà vua phê
duyệt. Rõ ràng, các bộ sách dư địa chí chính thống nói trên do các triều
đình phong kiến Trung Quốc biên soạn là văn kiện chính thức của nhà nước
thể hiện rõ giới hạn phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc.
Về đảo Hải Nam, các bộ sách địa chí nói
trên ghỉ chép rất tỉ mỉ lịch sử quy chế hành chính và núi sông các châu,
huyện trên đảo này, nhưng không thấy chép bất kỳ quần đảo nào ở Biển Đông. Đại Thanh nhất thống chí chép rất tỷ mỉ về núi sông phủ
Quỳnh Châu (đảo Hải Nam), cho đến cả gò nổi trên sông, khe động, hang núi
... nhưng không đề cập gì đến các địa danh "Thiên Lý Trường Sa",
"Vạn Lý Thạch Đường", mà người Trung Quốc xưa dùng để
chỉ các quần đảo ở Biển Đông.
Các sách địa lý do các học giả
Trung Quốc biên soạn
Sách địa chí do các học giả biên soạn,
đời Tống có Thái Bình
hoàn vũ ký của Nhạc Sử, Dư độc kỷ thắng của Vương Tượng Chi, Phương dư thăng lãm của Chúc Mục, Dư địa quảng ký của Âu Dương Mâu; đời Minh có Lịch đại cương vực biển của Hoàn Trường Cơ; đời Thanh có Thiên hạn quân quốc lộ bệnh
thư của Cố Viêm Vũ, Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tử Vũ (1678), Quảng dư kýcủa Dương Bá
Sinh (1808), Hoàng triều
dư địa lược của Nghiêm
Đức Chỉ (1834), Trung
Quốc địa lý học giáo khoa thư của
Đồ Ký (1906). Về phủ Quỳnh Châu, tác giả các bộ sách này đều chép địa lý
các châu, huyện trên đảo, không chép bất kỳ quần đảo nào ở Biển Đông. Trong
cuốn Trung Quốc học địa
lý giáo khoa thư, tác giả còn ghi rõ toạ độ điểm cực Nam lãnh thổ
Trung Quốc, cụ thể là: “Phía Nam từ vĩ độ Bắc 18o13’, tận cùng là bờ biển
Nhai Châu đảo Hải Nam, phía Bắc đến vĩ độ Bắc 53o50’, tận cùng là chỗ gặp
nhau giữa sông Hắc Long Giang và sông U-xu-ri; phía Tây đến kinh tuyến
42o11’, tận cùng là núi Tùng Lĩnh. Nam Bắc gồm hơn 36 vĩ độ, rộng hơn 7.100
dặm, Đông Tây gồm hơn 36 độ, dài hơn 8.800 dặm. Diện tích 32.605,156 dặm vuông,
chiếm ¼ châu Á, 1/10 lục địa thế giới, lớn hơn cả châu Âu”.
Ngoài ra, còn có một số sách về địa lý
của phủ Quỳnh Châu, trong đó đáng chú ý là cuốn Quảng Đông thông chí và
Quỳnh Châu phủ chí. Quảng Đông thông chí do Hách Ngọc Lân soạn năm 1731
viết “Phủ Quỳnh Châu đến tỉnh thành 1700 dặm. Đất nằm trong biển, rộng 970
dặm, dài 975 dặm. Từ Lôi Châu (một huyện ở Cực Nam bán đảo Lôi Châu) qua biển
một ngày thì đến. Quỳnh Sơn là nơi đô hội, ở Bắc đảo. Đảm (Châu) ở biên
thuỳ phía Tây, Nhai (Châu) ở biên thuỳ phía Nam. Vạn (Châu) ở biên thuỳ
phía Đông. Giữa là Lê Động. Muôn núi chập trùng. Bên ngoài biển cả bao
quanh. Nơi xa tiếp giáp các đảo quốc.
Quỳnh Châu phủ chí (Địa chí Phủ Quỳnh
Châu) do Minh Nghi soạn năm 1841 cũng chép về cương vực phủ này tương tự
Quảng Đông thông chí, cụ thể là : “Quỳnh Châu ở trong biển. Đông Tây cách
nhau 970 dặm, Nam Bắc cách nhau 975 dặm. Từ Từ Văn (một huyện ở Cực Nam bán đảo
Lôi Châu) qua biển một nửa ngày có thể đến. Quỳnh là nơi đô hội, ở phía Bắc
đảo. Đảm (châu) ở biên thuỳ phía Tây, Nhai (Châu) ở biên thuỳ phía Nam. Vạn
(châu) ở biên thuỳ phía Đông. Đông Lê bao bọc bên trong. Muôn núi chập
trùng. Bên ngoài biển cả bao quanh. Nơi xa tiếp giáp các đảo Di. Sách cổ
Quỳnh Quản nói rằng : Ngoài là biển cả, giáp châu Urisumijiliang; Nam là
Chiêm Thành; Tây là Chân Lạp, Giao chỉ; Đông là Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý
Thạch Đường; phía Bắc giáp huyện Từ Văn Phủ Lôi Châu.
“Cương vực” phủ Quỳnh Châu được mô tả như
trên rõ ràng chỉ bao gồm bản thân đảo Hải Nam mà Đảm Châu, Nhai Châu, Vạn
Châu đều là “biên thuỳ” của phủ này. “Thiên Lý Trường Sa”, “Vạn Lý Thạch
Đường” cũng như Chiêm Thành, Chân Lạp, Giao Chỉ đều là những nơi được sử
dụng làm phương vị để định rõ vị trí địa lý Phủ Quỳnh Châu, không nằm trong
cương giới của phủ này, nghĩa là không thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
Sách Trung Quốc cổ viết về nước
ngoài:
Đời Tống có Chư phiên chí (1225), đời Nguyên có Đảo di chí lược (1349), đời Minh có Tinh sai thắng lãm (1416), Doanh nhai thăng lãm (1410), Hải ngữ (1520), đời Thanh có Hải quốc văn kiến lục (1730), Hải quốc đồ chí (1820), Hải ngoại di phiên lục (1843),Doanh hoàn chí lược (1848), Quốc triều nhu viễn ký (1880) ...
Có thể nói, sách cổ Trung Quốc viết về
nhiều quốc gia thời đó ở Đông Nam Á, Nam Á, và Tây Á. Điều nhất quán trong
các sách đó là mô tả hai quần đảo ở Biển Đông với tên gọi "Thiên
Lý Trường Sa", "Vạn Lý Thạch Đường" và coi các
quần đảo này thuộc địa phận nước ngoài, không thuộc cương vực của Trung
Quốc. Sách Chư phiên chí ghi lại quan niệm của tác giả
Quỳnh Quán Chí (một cuốn sách địa chí viết về đảo Hải Nam, đời Tống), lấy
hai quần đảo ở Biển Đông với tên gọi như trên cùng với "Chiêm
Thành", "Chân Lạp" làm phương vị để xác định
vị trí đảo Hải Nam. Sách Đảo
di chí lược, Hải ngữ đều coi hai quần đảo là những thực
thể địa lý được xếp thành mục riêng, như các quốc gia khác. Tác giả của Hải ngữ còn nói "Vạn Lý Trường Sa"
là "bãi cát trôi của Tây Nam Di". Tác giả Hải ngoại phiên di
lục, coi "Vạn lý Trường Sa" là "phên dậu bên
ngoài của An Nam". Trong Hải
quốc đồ chí, hai
quần đảo ở Biển Đông với tên gọi "Thiên Lý Trường Sa",
"Vạn Lý Thạch Đường" được thể hiện trên bản đồ "Đông Nam Dương các quốc
duyên cách đồ", tức bản đồ các nước vùng Đông Nam Á ngày nay,
nghĩa là hai quần đảo này thuộc Đông Nam Á, không thuộc Trung Quốc.
Qua nghiên cứu nói trên, người ta có cơ
sở khoa học và lịch sử để rút ra một số nhận xét sau đây:
Một là, những sách dư địa chí chính thống
cổ của do các triều đại phong kiến Trung Quốc biên soạn, những ghi chép địa
lý trong các bộ chính sử Trung Quốc và những sách cổ do các học giả Trung
Quốc biên soạn không có ghi chép về các quần đảo ở biển Đông, trong đó có
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hai là, những bộ sách và ghi chép về địa
lý nói trên đều xác định giới hạn cực Nam
lãnh thổ Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu, đảo Hải Nam. Sau
này, vào cuối đời nhà Thanh, điểm cực Nam còn được xác định chính xác
tại toạ độ 18013' Bắc.
Ba là, nhiều sách Trung Quốc cổ nói về
nước ngoài do các học giả Trung Quốc biên soạn xác định “Thiên lý Trường
Sa”, “Vạn Lý Thạch Đường”, mà người Trung Quốc ngày nay giải thích là quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thuộc các nước khác, không phải của Trung Quốc.
Như vậy, có thể kết luận rằng các quần
đảo ở biển Đông (mà người Trung Quốc gọi là Nam Hải) chưa bao giờ là một bộ
phận lãnh thổ của Trung Quốc. Việc Chính phủ và các học giả Trung Quốc cho
rằng Trung Quốc có chủ quyền lâu đời đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là không có cơ sở và thực chất chỉ là sự xuyên tạc lịch sử để phục
vụ cho mưu đồ bành trướng ở biển Đông.
Nguyễn Kim
(Nguồn:http://vnsea.net/tabid/127/ArticleID/1365/language/vi-VN/Default.aspx?returnUrl=/tabid/127/FilterTypeID/False/FilterDate/2015-11-30/currentpage/6/language/vi-VN/Default.aspx )
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét