CHUYÊN ĐỀ NÀY ĐƯỢC BLOG PHẠM VIẾT ĐÀO KHƠI MỞ TỪ CUỐI NĂM 2012; SAU ĐÓ
MỘT SỐ TỜ BÁO, TẠP CHÍ KHÁC CÙNG THAM GIA BÀN LUẬN:
-Đối tượng không chỉ
là thế lực có âm mưu, hành động gây chiến tranh, bạo loạn lật đổ chế độ, mà còn
là những kẻ xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, bằng phương
thức vũ trang và phi vũ trang, cả từ bên ngoài và bên trong. Ai là đối tượng
không phải tự chúng ta áp đặt mà do chính âm mưu và hành động của họ. Quan điểm
chỉ rõ sự đan xen, chuyển hóa phức tạp giữa đối tác và đối tượng, ngay trong
từng đối tượng vẫn có mặt đối tác, cần tranh thủ, hợp tác; sự chuyển hóa giữa
đối tượng, đối tác phụ thuộc rất lớn vào phương thức ứng xử của chúng ta.
( QĐND-12/2/2014 )
-Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan
hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ
thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác,
trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn
biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong
mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”(5)
( TCCS-31/1/2015 )
Đại tá về hưu:...Nếu như tìm theo lối
giáo điều, sách vở: Kẻ thù của chúng ta là nước A,B,C nào đó như trong các văn
kiện hay nhắc, thế lực thù địch về tư tưởng hay chính trị thậm chí nói toẹt ra
Mỹ và Trung Quốc là kẻ thù chiến lược của ta, điều đó không sai nhưng không đủ,
chưa chuẩn xác...
Nếu vấn đề dân tộc ta
không giải quyết tốt, vấn đề ruộng đất của nông dân chúng ta không giải quyết
tốt; để sự suy sụp về đạo đức, văn hóa xã hội lan tràn, đó vừa là lực cản của
chúng ta, đó là kẻ thù của chúng ta chứ còn đâu nữa! Việc gì Trung Quốc đem
quân đánh ta, Trung Quốc bây giờ chắc không ngu vậy đâu…
Còn các bài tập do Bộ
Tổng tham mưu soạn: Trung Quốc hay dùng sơn cước đột nhập, gài mìn kiểu này
kiểu kia cho nên ta phải đề phòng để khỏi bị đánh bất ngờ; Đó chỉ là những bài
học mang tính chất kỹ thuật...
Hiện nay đất nước, lãnh
đạo, nhân dân đang bị chia rẽ, đang bị phân tâm một cách sâu sắc và nguy hiểm;
đó chính là nguyên nhân đẩy chúng ta vào vòng nô lệ của kẻ khác: nô lệ về kinh
tế, nô lệ về chính trị, nô lệ về văn hóa và cuối cùng thì...
Tôi cho rằng: Kẻ thù của
chúng ta, đối tác tác chiến chiến lược của chúng ta phải tìm ngay trong chúng
ta; có quá nhiều nguyên nhân dẫn tới tình cảnh này; điều này tôi nói thế là anh
hiểu...
( Blog Phạm Viết Đào-đưa lên mạng cuối năm 2012, blog này đã bị đánh sập...)
-Nghị quyết Trung ương
8 (khóa XI) cũng chỉ rõ phương châm BVTQ là: Đối với nội bộ, lấy việc giáo dục,
thuyết phục, phòng ngừa là chính đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý
nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các tranh chấp, bất đồng với các
nước liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật
pháp quốc tế. Đảng ta cũng chỉ rõ phương thức đấu tranh là kết hợp đấu tranh vũ
trang và phi vũ trang, nhưng lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ
động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch; khắc phục tình trạng sơ hở, mất cảnh giác. Phòng ngừa, ngăn chặn hiệu
quả các nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng;
không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong
nước.
( TCQPTD-10/6/2014 )...
Một số vấn đề về đối tác, đối tượng
trong tình hình mới theo quan điểm của Đảng ta
12/02/2014
22:06
QĐND
- Đối tác, đối tượng là vấn đề cơ bản, quan trọng trong chính sách, chiến lược
và phức tạp, nhạy cảm trong quan hệ quốc tế của mọi quốc gia. Xây dựng quan hệ
và xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng có tác động rất lớn đến sự ổn định,
phát triển bền vững trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước...
QĐND
- Đối tác, đối tượng là vấn đề cơ bản, quan trọng trong chính sách, chiến lược
và phức tạp, nhạy cảm trong quan hệ quốc tế của mọi quốc gia. Xây dựng quan hệ
và xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng có tác động rất lớn đến sự ổn định,
phát triển bền vững trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nhận
thức về đối tác, đối tượng không bất biến. Khi thế giới tồn tại hai phe đối
kháng, “chiến tranh lạnh”, quan hệ giữa các quốc gia được chia thành: Ta, bạn,
thù. Cơ sở chủ yếu của sự phân chia đó là ý thức hệ, giai cấp. Có nước đưa ra
“tiêu chí” phân loại quan hệ rất máy móc: Bạn của thù là thù, thù của thù là
bạn! Không ít nước công khai xác định nước khác là kẻ thù cơ bản, lâu dài. Cùng
với những biến động to lớn, bất ngờ của thế giới, quan hệ giữa các nước đan
xen, chuyển hóa rất phức tạp. Xuất hiện những quan niệm dẫn đến sự thay đổi lớn
trong quan hệ giữa các nước. Năm 1859, Henry Temple Palmerston, một chính khách
Anh với hơn 10 năm làm Bộ trưởng Ngoại giao, 6 năm làm Thủ tướng, người bảo vệ
thành công lợi ích quốc gia trong các cuộc xung đột kéo dài giữa Anh với Pháp
và nước Nga Sa Hoàng, đã rút ra kết luận rất quan trọng: Giữa các nước không có
đồng minh vĩnh viễn và không có kẻ thù truyền kiếp, chỉ có quyền lợi dân tộc là
lâu dài mà thôi. Trong xu thế toàn cầu hóa, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc
gia ngày càng tăng, sự bền vững của quốc gia, sự tồn tại của thể chế chính trị
bị tác động ngày càng nhiều bởi yếu tố bên trong, thì việc bảo vệ lợi ích quốc
gia dân tộc càng được đề cao, được xem là mục tiêu cơ bản, lâu dài. Lãnh đạo
quốc gia không còn tự bó hẹp quan hệ chỉ với đồng minh mà mở rộng quan hệ với
các nước khác theo lợi ích của chính mình. Nếu xảy ra tranh chấp giữa đồng minh
với một nước khác, thái độ của nước lớn trước hết là xuất phát từ chính lợi ích
của mình. Hành động của Mỹ trong vụ tranh chấp chủ quyền đảo Scarbrough (Hoàng
Nham) giữa Trung Quốc và Phi-lip-pin; của Nga, Trung Quốc trong xung đột ở
Xy-ri... là những minh chứng cho điều đó. Khi thể chế chính trị, chính quyền
thay đổi thì quan hệ đồng minh cũng dễ thay đổi theo... Cùng với việc đề cao
lợi ích quốc gia, tính thực dụng trong quan hệ giữa các nước cũng gia tăng,
kiểu như "mèo trắng, mèo đen đều tốt, miễn là bắt được chuột"! Thực
tiễn ấy đã thuyết phục nhiều quốc gia. Họ xử lý vấn đề đối tác, đối tượng linh
hoạt, nhằm tạo môi trường thuận lợi để phát triển, bảo vệ đất nước, bảo vệ lợi
ích quốc gia dân tộc. Các nước ưu tiên lựa chọn những cường quốc cùng chung lợi
ích chiến lược để xây dựng quan hệ đối tác chiến lược nhằm tìm kiếm sự ủng hộ,
chỗ dựa cho xây dựng và bảo vệ đất nước. Quan hệ đối tác có cấp độ khác nhau,
tùy theo lợi ích quốc gia, dân tộc, mục tiêu bảo vệ đất nước và chiến lược,
sách lược trong từng giai đoạn. Có không ít quan hệ đối tác, thậm chí là đối
tác chiến lược giữa những nước có thể chế chính trị khác nhau; hoặc giữa những
nước đang có tranh chấp chủ quyền với nhau. Xu hướng chung trên thế giới là
không công khai chỉ rõ ai là đối tượng. Tuy nhiên, khi có mối đe dọa trực tiếp,
các nước cũng xác định đối tượng đấu tranh cụ thể.
Vị
trí địa - chiến lược và những lý do khác làm cho Việt Nam không
ít lần phải xử lý quan hệ đối tác, đối tượng trong những hoàn cảnh không dễ
dàng. Chúng ta cũng từng bị ảnh hưởng, quan niệm cứng nhắc về đối tác, đối
tượng. Từ truyền thống dân tộc, kinh nghiệm của thế giới và qua trải nghiệm của
chính mình, nhận thức của Đảng ta về đối tác, đối tượng có sự phát triển, để từ
đó đưa ra những chủ trương sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xu thế của thế giới. Cương lĩnh
năm 1991 đã xác định những vấn đề rất cơ bản, có tính định hướng về đối tác,
đối tượng. Theo Cương lĩnh, những lực lượng xâm phạm độc lập dân tộc, cản trở
việc thực hiện 6 mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là đối tượng đấu tranh của
nhân dân ta; đối tượng trực tiếp, trước mắt là "chủ nghĩa thực dân mới và
các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội"; đối tượng
tác chiến và đấu tranh của quân và dân ta là: "chống lại sự can thiệp và
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân
tộc"(1). Nghị quyết Đại hội Đảng VII, VIII tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung,
phát triển quan điểm về đối tác, đối tượng. Định hướng như vậy là đúng đắn
nhưng chưa thật bao quát được sự phức tạp trong quan hệ quốc tế trong xu thế hội
nhập, toàn cầu hóa. Với tư duy mới, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc đã khái quát thành nguyên tắc, thể hiện cách nhìn nhận mới
và thống nhất về đối tác, đối tượng. Sau khi Nghị quyết ra đời, nguyên tắc xác
định và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng được kiểm nghiệm qua thực tiễn và
khẳng định tính đúng đắn. Do đó, Nghị quyết số 28-NQ/TW của BCH Trung ương khóa
XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã đưa nguyên tắc trên
thành quan điểm: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng
quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác;
bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng. Mặt khác, trong tình
hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng:
Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác
có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh"(2).
Quan
điểm của Đảng vừa có tính khái quát cao, vừa đầy đủ, làm cơ sở để nhận thức và
xử lý quan hệ đối tác, đối tượng một cách bình tĩnh, sáng suốt. Trong đó, căn
cứ xác định đối tác được đặt lên trước là phù hợp với quan điểm của Đảng lấy
đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế: "Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế"(3).
Đối tượng không chỉ là thế lực có âm mưu, hành động gây chiến tranh, bạo loạn
lật đổ chế độ, mà còn là những kẻ xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia,
dân tộc, bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang, cả từ bên ngoài và bên
trong. Ai là đối tượng không phải tự chúng ta áp đặt mà do chính âm mưu và hành
động của họ. Quan điểm chỉ rõ sự đan xen, chuyển hóa phức tạp giữa đối tác và
đối tượng, ngay trong từng đối tượng vẫn có mặt đối tác, cần tranh thủ, hợp
tác; sự chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác phụ thuộc rất lớn vào phương thức
ứng xử của chúng ta. Quan điểm chỉ đạo phải triệt để phân hóa, cô lập cao độ
với từng bộ phận của đối tượng. Nghị quyết nhấn mạnh, trong khi tăng cường quan
hệ đối tác, vẫn phải chú ý mặt đối tượng và phải đấu tranh với nó. Quan điểm
của Đảng đã quán triệt tư tưởng đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia, dân tộc với
mục tiêu xuyên suốt là giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững
chế độ chính trị XHCN, kết hợp chặt chẽ với tạo dựng môi trường thuận lợi nhất
cho xây dựng đất nước. Nhận thức và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng theo quan
điểm của Đảng không phải là sách lược nhất thời mà là chủ trương cơ bản, nhất
quán, lâu dài. Lịch sử dân tộc cũng như thực tiễn hoạt động của Đảng đã chứng
tỏ điều đó và được thế giới thừa nhận.
Quan
điểm về đối tác, đối tượng là một trong những điểm nổi bật, có sự đột phá trong
tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; khắc phục được hạn chế của tư duy cũ,
không cứng nhắc, làm cản trở hội nhập, hợp tác, không mơ hồ, mất cảnh giác; vừa
giữ nguyên tắc, vừa đủ linh hoạt, được xem như cẩm nang “dĩ bất biến” để ứng
với “vạn biến” trong quan hệ, xử lý các tình huống chiến lược. Quan điểm của
Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở chính trị trực tiếp cho đường
lối, chính sách đối nội, đối ngoại. Thành công trong phát triển quan hệ đối
ngoại, không để xảy ra xung đột, đối đầu trong những năm qua có sự góp phần
đáng kể của quan điểm nêu trên. Chưa bao giờ chúng ta có được nhiều bạn bè, đối
tác như ngày nay. Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn
diện với hơn 20 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, các nước Ủy viên thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống.
Trong khi tăng cường quan hệ đối tác, chúng ta vẫn kiên trì đấu tranh, giải
quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, thu hẹp những khác biệt trong tranh chấp
chủ quyền Biển Đông, không để mâu thuẫn, tranh chấp cản trở các quan hệ khác. Chúng
ta đã tạo được sự đan xen lợi ích chiến lược, giữ vững và củng cố môi trường
hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan
điểm của Đảng về đối tác, đối tượng có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn.
Nhưng cũng có ý kiến cần định hướng cụ thể hơn về đối tác, đối tượng để tránh
bất cập, lúng túng, hoặc lẫn lộn giữa chiến lược và sách lược trong xử lý các
trường hợp cụ thể. Để giải quyết điều đó, quan trọng nhất là phải quán triệt
sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm của Đảng. Xử lý mối quan hệ
đối tác, đối tượng phải xem xét trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản và
lâu dài của quốc gia, dân tộc làm nền tảng; không vì lợi ích cục bộ, trước mắt
mà làm tổn hại đến lợi ích chung. Cần tính đến sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; giữa lợi
ích quốc gia và đoàn kết quốc tế. Đặc biệt coi trọng công tác nghiên cứu dự báo
chiến lược, kịp thời phát hiện cơ hội để khai thác, nhận rõ thách thức để hóa giải,
không để rơi vào tình thế bị động, bất ngờ...
Đại
tá TS VŨ ĐĂNG MINH
(1).
Đảng ủy Quân sự Trung ương, Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20
năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 của Bộ Quốc phòng (1991-2011), t.68,69.
(2).
Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới.
(http://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ve-doi-tac-doi-tuong-trong-tinh-hinh-moi-theo-quan-diem-cua-dang-ta-424465 )
Vấn đề đối tác - đối tượng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc
9:58' 31/1/2015
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (từ ngày 02-7 đến ngày 12-7-2003), trên cơ sở phân tích tình hình chính trị thế giới, khu vực và trong nước; đồng thời căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra và âm mưu, khả năng hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta, Đảng ta đã đề ra “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới” (gọi tắt là Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003). Trong đó, Đảng ta đã đưa ra một số phương châm chỉ đạo trong việc xác định đối tác - đối tượng, cụ thể là: Phải trên tinh thần thêm bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập các thế lực thù địch chống đối ta, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn. Không nên xác định cả một quốc gia là đối tượng đấu tranh mà chỉ nên nói các thế lực thù địch, hoặc một số người trong giới cầm quyền ở một số nước nào đó có hành động cực đoan, hiếu chiến, chống đối ta, các cơ quan tình báo nước ngoài có hoạt động phương hại đến an ninh quốc gia của ta. Không có đối tác vĩnh viễn, song phải xác định được những đối tác chiến lược, lâu dài, nhất quán trên cơ sở chủ trương thêm bạn, bớt thù, khai thác triệt để mặt đối tác nhằm bảo đảm lợi ích lâu dài và chắc chắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những phương châm chỉ đạo trên đã cho thấy sự đổi mới mạnh mẽ, khách quan, toàn diện trong tư duy của Đảng ta về vấn đề đối tác - đối tượng: từ chỗ chỉ dựa trên ý thức hệ để xác định bạn - thù, sau đó mới tới lợi ích của quốc gia, dân tộc, đã chuyển sang quan niệm mềm dẻo, biện chứng hơn khi nhìn nhận đúng đắn về sự đan cài lợi ích trong quan hệ với các quốc gia. Đồng thời, cũng trên cơ sở phương châm chỉ đạo trên, Trung ương Đảng ta đã đề ra nguyên tắc trong việc xác định đối tác, đối tượng phù hợp với bối cảnh của đất nước, đó là: “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn nhận biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ, mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể”(1).
Sau hơn 10 năm quán triệt thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003 nói chung và các phương châm, nguyên tắc trong xác định đối tượng, đối tác, chúng ta đã thu được rất nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt chúng ta đã: “...bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc,... Tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh được tăng cường; sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước”(2). Nước ta đã hội nhập ngày càng sâu với quốc tế, thiết lập quan hệ bình thường với hầu hết các quốc gia; tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao vào các tổ chức ở cấp khu vực và thế giới. Đặc biệt, nước ta đã tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống với các đối tác láng giềng; tạo quan hệ ổn định, lâu dài và không ngừng đưa các mối quan hệ với các nước lớn đi vào chiều sâu (3); tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác của quốc tế vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động can thiệp, lật đổ, chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các thế lực thù địch.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận đúng về những hạn chế, thiếu sót. Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngày 25-10-2013, nêu rõ: “... một số yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chậm được củng cố, tăng cường, có mặt còn giảm sút và phát sinh những vấn đề phức tạp mới. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chưa đầy đủ, sâu sắc; chủ quan, mất cảnh giác; quan liêu, không gắn bó với nhân dân, không nắm chắc tình hình, có nhiều sơ hở... Các nguy cơ mà các Đại hội Đảng đã chỉ ra, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI tiếp tục cảnh báo chưa được khắc phục, có mặt còn nghiêm trọng hơn”(4).
Trên thực tế, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn mơ hồ, mất cảnh giác, nhìn nhận phiến diện về vấn đề đối tượng, đối tác; chưa có quan điểm khách quan, toàn diện trong đánh giá các nguy cơ, thách thức và cơ hội của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Từ đó, chưa nhận thức đầy đủ về các lợi ích quốc gia, dân tộc; đồng thời, chưa gắn kết chặt chẽ giữa yêu cầu hội nhập quốc tế với yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm sự độc lập, tự chủ, bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam. Cho nên, trong một số trường hợp chúng ta vẫn còn rơi vào thế bị động, bất ngờ.
Chính từ việc nhận thức đúng về mối nguy hiểm, đe doạ từ những hạn chế nói trên có thể tác động làm giảm sút sức mạnh tổng hợp của đất nước, cũng như khả năng bảo vệ Tổ quốc trước các khó khăn, thách thức đặt ra trong thời gian tới, ngày 25-10-2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã tổ chức Hội nghị lần thứ tám và nhất trí thông qua Nghị quyết số 28-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Với hệ thống 7 quan điểm đề ra trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết lần này tiếp tục nhấn mạnh và làm rõ hơn quan điểm về vấn đề đối tượng - đối tác.
Việc xác định đối tượng, đối tác là tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, sách lược, chiến lược đúng đắn trong bảo vệ Tổ quốc. Thực tế, xác định đối tượng - đối tác là một trong những nội dung căn bản nhất trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Do đó, vấn đề đối tượng, đối tác vừa qua đã được Trung ương Đảng ta khẳng định rõ: “Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”(5).
Quan điểm trên của Trung ương Đảng vẫn thể hiện được tính mềm dẻo, biện chứng toàn diện trong cách nhìn nhận về đối tượng và đối tác. So với nội hàm quan điểm cùng về vấn đề này trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, thì quan điểm lần này vừa có tính kế thừa, nhưng vừa có sự bổ sung những nội dung phù hợp, đòi hỏi cần phải được nghiên cứu, quán triệt nghiêm túc. Cụ thể:
Thứ nhất, quan điểm về đối tượng đấu tranh
Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định: “... bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Đây là một sự khẳng định khôn khéo, mềm dẻo của chúng ta trong quyết tâm bảo vệ các lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam và mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng ta không vạch tên, chỉ mặt đối tượng nào, không tạo ấn tượng hiềm khích với ai, nhưng sự khẳng định trên cũng đủ để vừa quy tụ ý chí, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, vừa đề cao được lợi ích tối thượng của quốc gia, dân tộc.
Bởi vì, “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”(6), cho nên tiếp tục đề cao mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý, dễ hiểu. Hơn nữa, điều này cũng phù hợp với phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đại hội VII (năm 1991) đã đề ra đó là “Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc”(7). Thực tế chỉ ra rằng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chính là nền tảng vững chắc nhất để xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta - đó cũng chính là lợi ích quốc gia, dân tộc ta đang hướng tới.
Do đó, bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng chính là các thế lực có âm mưu, hành động chống lại nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chống lại các lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam; chống lại sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn và tất cả những thế lực đó đều là đối tượng đấu tranh của chúng ta.
Thứ hai, quan điểm về đối tác
Trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003, xác định “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta”. Tuy nhiên, hiện nay Nghị quyết số 28-NQ/TW “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, ngày 25-10-2013 đã cắt bỏ đi hai từ “chủ trương” của quan điểm trước đây và khẳng định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”.
Điều này vừa bảo đảm sự phù hợp với các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, nó cũng phù hợp với đường lối đối ngoại nhất quán của nước ta đã được Đảng ta xác định trong Đại hội XI: “là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(8); “Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”(9).
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, trách nhiệm quốc tế của Việt Nam cũng ngày càng lớn và được các đối tác tin cậy. Do đó, việc cắt bỏ đi hai từ “chủ trương” trong quan điểm cũ là một bước khẳng định rõ ràng rằng chúng ta sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với những đối tác nào tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với chúng ta; chứ không phải chỉ dừng lại ở mức độ “chủ trương”. Mặc dù vậy, để bảo đảm tính khách quan, toàn diện thì khi nhận thức về vấn đề đối tác cần phải đặt nó trong mối quan hệ với vấn đề đối tượng ngày nay.
Thứ ba, về tính biện chứng giữa đối tượng - đối tác
Trước đây, Trung ương Đảng chỉ nêu “... trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”. Nhưng hiện nay, Trung ương Đảng đã khẳng định: “... trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”.
Có thể thấy, Trung ương Đảng đã quan niệm một cách khái quát, khách quan, toàn diện và đầy đủ hơn về tính biện chứng trong mỗi đối tác, chứ không chỉ dừng lại ở một số đối tác như trước đây. Thực tế đã khẳng định về tính đúng đắn của quan điểm này, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tính cạnh tranh song hành cùng tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng.
Như vậy, đối tượng và đối tác luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Do đó, sẽ có những đối tác rất đáng tin cậy, rất khó có khả năng chuyển hóa thành đối tượng, nhưng cũng có những đối tác có thể bị chuyển hóa thành đối tượng trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Thậm chí có đối tác bản thân đã, đang là đối tượng, buộc chúng ta phải vừa hợp tác, vừa phải đấu tranh. Bên cạnh đó, trong các loại đối tượng sẽ có những đối tượng mâu thuẫn, khác biệt ở mức độ nhất định, trong khoảng thời gian nhất định với chúng ta về ý thức hệ, hoặc về lợi ích chủ quyền, lãnh thổ hoặc về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội,... Tuy nhiên, xét trong tổng thể thì vẫn còn có mặt có thể hợp tác được, mà không phải là đối tượng hoàn toàn hay đối tượng vĩnh viễn.
Thứ tư, chủ trương ứng xử đối với những mặt mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích ở đối tác với chúng ta
Quan điểm về vấn đề đối tượng, đối tác mà Trung ương Đảng đề ra trong Nghị quyết 28-NQ/TW còn thể hiện tính cách mạng sâu sắc, rằng với những điểm mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích giữa ta với mỗi đối tác đó, chúng ta không phải vì vậy mà chấp nhận nó, mà “cần phải đấu tranh”. Bằng sự mưu trí, sáng tạo để “đấu tranh” nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng tin, tăng cường tính đồng thuận, mở ra các thời cơ thuận lợi, tranh thủ tận dụng được những ưu điểm của mỗi đối tác để giúp chúng ta phát triển nhanh. Mặt khác, hạn chế tiến tới triệt tiêu các mâu thuẫn, lực cản phát sinh ở mỗi đối tác, mà không phải là nhằm mục tiêu triệt tiêu đối tác.
Tóm lại, trong nhận thức về vấn đề đối tượng, đối tác cần phải có cách nhìn khách quan, toàn diện, khoa học. Phải thấy được trong mỗi đối tượng, đối tác đâu là điểm có thể hợp tác được, đâu là điểm cần đấu tranh. Không nên cực đoan, máy móc hoặc rơi vào mơ hồ, ngộ nhận, thiếu cảnh giác rằng đối tác chỉ là hợp tác, còn đối tượng nhất định phải đấu tranh. Đồng thời, phải hết sức mềm dẻo trong hoạch định chủ trương, sách lược, chiến thuật đấu tranh với từng loại đối tượng, ở từng mặt, từng vấn đề vào từng thời điểm cụ thể, trên tinh thần hòa bình, hợp tác và phát triển; tránh xung đột, đối đầu, nhất là với các nước lớn; tránh bị cô lập, lệ thuộc.
Bên cạnh đó, để góp phần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vấn đề đối tượng, đối tác, đòi hỏi các cơ quan, ban, ngành chức năng cần phải nghiên cứu, xây dựng nội dung phù hợp, tổ chức tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho từng đối tượng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đối với các cán bộ chủ chốt và các lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thì cần phải mở chuyên đề riêng, có sự phân tích sâu sắc, toàn diện hơn để giúp cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng, hiểu rõ, nâng cao sức cảnh giác, đề phòng, nhận diện được đối tượng, đối tác của ta, tạo nên sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Mỗi cơ quan, ban, ngành, tổ chức, doanh nghiệp,... cần phải xây dựng kế hoạch, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng thành các chương trình hành động, kiểm tra, giám sát phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, để đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc./.
------------------------------------------------------------
Chú thích:
(1) Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2003, tr. 44
(2) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, ngày 25-10-2013
(3) Trong quan hệ với các nước lớn, hiện nay Việt Nam đã thiết lập được quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 11 nước - Nguồn: Tạp chí Cộng sản, số 862 (tháng 8-2014), tr. 32
(4) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, ngày 25-10-2013
(5) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, ngày 25-10-2013
(6) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013, Điều 11
(7) Tìm hiểu môn học Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Lý luận chính trị, H, 2007, tr. 54
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 83
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 84
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét