Đề cập đến những ngôi mộ tổ tiên thì không ai là không biết. Nhưng khi được hỏi về phong thủy hung cát của mộ phần tổ tiên thì có người không biết, và càng có nhiều người hơn nữa không tin rằng rằng phần mộ gia tiên lại có thể che chở hay phù hộ con cháu đời sau này.
“Thiên địa và con người cùng tồn tại, vạn vật với con người là hợp nhất. Âm dương hình khí pháp hữu vân – pháp âm dương ở tại thiên địa, khí vận ở tại vạn vật. Thiên Địa Nhân là hòa hợp, là tương phụ tương thành”. Thấy rõ phong thủy tốt xấu của phần mộ, vô hình chung có khả năng ảnh hưởng đến vận mệnh tiền đồ của con cháu và phúc phận của cả dòng họ. Do đó, chúng ta càng không thể không biết, không thể không tin.
1. Tiên thiên phong thủy là gì?
Tiên thiên phong thuỷ là tổ tiên thông qua khí của môi trường xung quanh ảnh hưởng đến thế hệ con cháu, trường khí này cũng thường được gọi là “mồ mả” hoặc “âm trạch”. Còn hậu thiên phong thuỷ chính là “nhà ở” hay còn gọi là “dương trạch”!
Có câu nói “người chết như ngọn đèn đã tắt”. Hầu hết mọi người thường tin rằng sau khi chết, “linh hồn” rời xác, phần xác thịt thì hỏa táng hoặc bị mục nát, hoá tro bùn. Vậy làm thế nào mà nó lại có thể ảnh hưởng đến thế hệ tương lai? Thật ra không phải là như vậy. Theo lý thuyết “vật chất bất diệt” để suy đoán, con người chết đi, chẳng qua chỉ là sự biến mất của một tổ hợp cơ quan ngũ tạng cũ của thân thể, nhưng tổ hợp thành cơ thể con người là từ các nguyên tố vật chất cơ bản mãi mãi bất tử. Thông qua mai táng hay hỏa táng, một số biến thành thể khí, một số biến thành tro bụi hoặc bị phân hủy vào đất, và cũng có một số lại tổ thành hình thức vật chất khác, ngay cả những khí, tro hay đất này cũng tái tổ hợp. Chúng góp phần tạo ra một số hình thức mới của sinh mệnh, như phân bón áp dụng cho các cánh đồng, được các loại cây trồng hấp thụ, biến thành các loại trái cây, rau quả.
Điều đó cho thấy, tổ tiên mặc dù đã chết như ngọn đèn đã tắt, nhưng trường khí của họ vẫn lấp đầy một không gian nhất định, vẫn âm thầm vẫn lấp đầy một không gian nhất định, vẫn âm thầm ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai.
Nói một cách khái quát, nếu các mối quan hệ máu mủ càng gần, ảnh hưởng của nó càng lớn. Bởi vì, tổ tiên và con cháu của họ rất giống nhau về gen, có những điểm tương đồng rất lớn, vì vậy họ rất dễ dàng câu thông với trường khí. Thật không may, loại gen câu thông này (từ trường cực kì nhỏ và yếu), nên con người nhìn không thấy sờ không được, không những thế nếu chúng ta sử dụng các phương tiện khoa học và công nghệ hiện có cũng rất khó khăn để phát hiện ra. Nhưng thực tế đã chứng minh, những gì các nhà khoa học chưa phát hiện được không có nghĩa là nó không tồn tại. Tại điểm này, tổ tiên của chúng ta dường như vượt trội hơn so với người hiện đại. Họ không có sự trợ giúp của cái gọi là phương tiện tiên tiến, nhưng nó đã được giới khoa học và công nghệ hiện đại khẳng định và chứng minh. Ví dụ như Đạo gia đã sớm dự báo về quá trình hình thành của vũ trụ, và hình dạng “Thái cực” của hệ ngân hà. Có nhiều thứ mà nhân loại hiện tại cho là “mê tín”, chẳng hạn như phong thủy học, từ xưa đến nay đã có không ít người thu được lợi ích của thuyết nay đã có không ít người thu được lợi ích của thuyết phong thủy. Bao nhiêu năm sau nó sẽ vẫn mãi là những thành quả của khoa học…
Như vậy, tác động của các phần mộ tổ tiên đến các đời hậu duệ sau này quả thực là một bộ phận rất trọng yếu trong học thuyết phong thuỷ. Nó không chỉ là nơi mà thân xác thịt vật chất của người sau khi chết quy tụ. Mà đây còn là một nơi thiêng liêng cho các thế hệ tương lai tỏ lòng tôn kính đối với tổ tiên của họ. Đồng thời mộ cũng là một trường vô hình gây ảnh hưởng đến sự phồn thịnh và phát triển của các thế hệ sau. Kể từ buổi đầu sơ khai của nhân loại, cuộc sống và cái chết vẫn luôn là một đề tài bất tận. “ba mươi lập nghiệp, bốn mươi bất mê, năm mươi mà biết thiên mệnh.”
Những người trên 50 tuổi cũng tương đương với “một nửa chôn vùi dưới đất” rồi, lúc này tự nhiên họ sẽ bắt đầu suy ngẫm về vấn đề nơi chốn sau khi chết. Có thể là mai táng, hỏa táng hay thả trôi sông…, dựa theo tín ngưỡng tập quán dân tộc và phong tục vùng miền khác nhau mà chọn ra phương thức tang lễ khác nhau. Những phương pháp này đã được lưu truyền lại và trở thành một ngành học mới. Những nhà nghiên cứu chuyên ngành và những người hành nghề chôn cất, được biết đến như là “thầy phong thủy”. Vào triều đại nhà Tấn, có một người đàn ông tên là Quách Phác, đã đem những kiến thức về lĩnh vực này đúc kết, tổng hợp lại, và hình thành nên một kiệt tác phong thuỷ có tên là “táng kinh”.
Cuốn “Táng kinh” đã trình bày và phân tích rất sâu sắc đối với phần mộ tổ tiên. Trong đó có nói, cái được gọi là “người sống” về thực chất là nói về khí được ngưng tụ lại, và kết thành một thân xác thịt. “Người chết” là để phát tán khí xương che chở và ban phước cho hậu sinh. Vì vậy, chọn nơi chôn cất tốt xấu theo phong thuỷ, có liên quan trực tiếp đến phúc, hoạ, hung, cát của các thế hệ con cháu tương lai . Phong thuỷ của phần mộ tổ tiên đóng một vai trò như thế nào?
Trước mắt “khoa học và công nghệ” hiện đại đều không cách nào có thể kiểm nghiệm ra, chỉ có thể thông qua lịch sử để kiểm chứng. Nhiều danh nhân trong lịch sử, đều rất coi trọng tầm quan trọng về phong thuỷ của các ngôi mộ. Có thể họ đã được hưởng rất nhiều thứ bổ ích từ những ngôi mộ của tổ tiên, và sự nổi tiếng của họ là đã minh chứng điểm này.
Thôn Gia Cát hình bát quái ở Trung Quốc (Ảnh: NTDTV)
Trong các triều đại lịch sử, Hoàng đế từ khi lên ngôi, thường tìm đất và chọn huyệt cho mình, xây dựng các công trình lớn. Hình thức phong thuỷ trên toàn thế giới dường như đều được áp dụng tại những lăng tẩm này.
Có làm như vậy, vương triều của họ sẽ có thể tiếp tục trong nhiều thế kỷ. Nhưng ngay cả khi người dân với cuộc sống cơ cực bần hàn đến mấy cũng thường làm như vậy. Ví như một nhà nào đó có người đỗ trạng nguyên, được phong quan, hay trở nên giàu có, nếu bạn chú ý phần mộ tổ tiên của gia đình họ, nhất định là nhờ thuận theo phong thuỷ mà có được.
2. Tại sao phần mộ tổ tiên lại có thể phù hộ cho con cháu đời sau?
Trong “Thanh Nang Kinh” nói rằng: Âm dương gặp nhau, phúc lộc trường tồn. Một trong những nguyên nhân là do linh hồn của những bậc trưởng bối, xương cốt và con cháu là có quan hệ huyết thống (gen di truyền và sinh học dẫn điện). Bộ xương cốt được chôn cất đúng long huyệt, tự nhiên sẽ hấp thụ long khí, hình thành khí phản hồi, nhập lại xương mới. Đây chính là lý vạn vật sinh ra từ đất rồi lại trở về với đất. Người sống thuộc dương, người chết thuộc âm; Long khí (2 khí âm dương) thuộc dương; người chết thuộc âm; Long khí được dưỡng thành bởi khí âm và khí dương, sau đó có quan hệ đối ứng với người có cùng huyết thống. Đây chính là ý chỉ “âm dương gặp nhau, phúc lộc trường tồn!”
Bậc thầy phong thủy Dương Công cho biết: “Nơi đất tốt có thể tích đức, vùng đất xấu thu quá nhiều thứ tà, kẻ cướp hoành hành, trời thần đều phẫn nộ”. Thường hay nói rằng nơi bảo địa phong thuỷ là chuyên dành cho những người hay làm việc thiện, những người hữu duyên tích nhiều phúc đức. Những kẻ tiểu nhân tà ác chỉ xứng đáng nhận vùng đất xấu. Nếu như vùng đất phong thuỷ bảo địa mà lưu lại cho kẻ thiếu đức, ông trời và các vị thần cũng sẽ phẫn nộ, những người liên quan đều sẽ bị trừng phạt! Con người vốn là một trong các anh linh của vạn vật, và tương đồng khí âm dương với vạn vật.
3. Tác dụng tương hỗ của khí âm dương và khí âm dương phong thuỷ của phần mộ tổ tiên
Cục mệnh lấy can làm dương, chi làm âm, con người lấy nhân tố âm dương hai khí, chủ yếu là việc tốt xấu cát hung của con người. Phía ngoài ngôi mộ được xem là dương và dưới đất được xem là âm, xương thi thể làm căn bản, làm thái cực. Thái cực sinh Âm Dương, Âm Dương thành Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Ngũ Hành, Ngũ Hành thành Bát Quái, Bát Quái định đại nghiệp, can thống tam nam, khôn suất tam nữ, nhân đạo thí thành! Đại đạo chí giản, toàn chuyển thái cực! Thiên địa nhân hợp nhất! Thiên địa nhân đồng sinh!
4. Mộ phần của gia đình dù điều chỉnh rồi, nhưng tại sao vẫn không có hiệu quả?
Có rất nhiều lý do. Thứ nhất là liên quan tới trình độ của thầy phong thủy; thứ hai là có liên quan đến nhà ở; thứ ba là liên quan với ngày tháng năm sinh (hay còn gọi là bát tự) của bản thân người đó; thứ tư là liên quan tới nỗ lực của bản thân người đó. Bởi vì phong thủy không phải là yếu tố duy nhất trong việc quyết định số phận của con người. Ngoài ra, còn có sự khác biệt giữa việc hỏa táng và chôn cất cùng nhiều các yếu tố, đều sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả và vai trò của phần mộ tổ tiên.
5. Bây giờ đa phần đều được hỏa táng, không có phần mộ tổ tiên thì giải pháp như thế nào?
Hiện nay tro của người đã qua đời được chôn cất ở nghĩa trang, vậy lẽ nào nói nghĩa trang đối với phong thủy của tất cả mọi người có ảnh hưởng giống nhau?
Việc hỏa táng mới diễn ra gần đây, thử hỏi có bao nhiêu gia đình là không có mộ tổ tiên?
6. Những tác động của phần mộ tổ tiên đến các thế hệ tương lai có giống nhau không?
Thứ nhất, tác động là không giống nhau đối với nam giới và nữ giới, do đó trước tiên chúng tôi muốn khẳng định, tác động phong thuỷ của phần mộ tổ tiên đến thế hệ tương lai giữa nam và nữ là không giống nhau. Lấy ví dụ thực tế như sau: có một hộ gia đình, ba thế hệ con gái đều rất tốt, không chỉ có thể kết hôn với một người chồng tốt, mà còn có thể phát triển tốt tất cả các khía cạnh của riêng mình, con cái cũng rất thuận; nhưng đối với con trai trong mỗi thế hệ thì đều rất bình thường, không có gì đặc biệt, mà đa phần còn rất đoản mệnh, thường sống không qua nổi lục tuần, và một số còn bị gặp phải tai họa bất ngờ. Cuối cùng, một vị thầy phong thủy đã xem và cho biết, phần mộ của nhà của anh này có vấn đề, kết quả khảo sát thực địa quả đúng như vậy. Mộ phần của tổ tiên nhà anh ấy ở phía đông nam, đối diện phía trước là một ngọn núi đẹp, non nước hữu tình và hướng về phía đông, nhưng về phương vị chính đông thì đối mặt với những hẻm núi và nền đất bị sụt lún.
Phương vị đông nam là một quẻ trong bát quái, hướng của gió, có ảnh hưởng tới chủ nhà là con gái cả. Hướng chính đông chính là quẻ chấn (một trong bốn phương thuộc về phương đông), theo bát quái thì tương ứng với con trai cả trong nhà bị hoạn nạn. Thứ hai, Đối với các cửa ra vào ảnh hưởng không giống nhau phong thủy của các phần mộ tổ tiên đối với các con cái ảnh hưởng cũng không giống nhau. Con cả và con thứ tư, hay con thứ hai và thứ năm, hoặc con thứ ba và đưa thứ sáu đều bị ảnh hưởng giống nhau. Điều này được quyết định bởi la bàn của bát quái. dụng cụ chuyên nghiệp khảo sát âm trạch phong thủy – la bàn, với mặt phẳng 360 độ chia thành 24 hướng núi, quy về khu vực bát quái , được gọi là “một quẻ quản ba núi.” Lấy ví dụ về một trường hợp thực tế: có một gia đình, người anh cả đã sinh ra một đứa con gái câm, con trai của anh ta sinh ra một đứa cháu bị điếc, trong khi đó người anh thứ hai con cái đều rất có tiền đồ triển vọng.
Khi đến xem phần mộ tổ tiên của anh ấy, đối diện với hướng chính đông của ngôi mộ là núi, có rất nhiều đá rơi xuống. Hướng chính đông chính là quẻ chấn quái trong bát quái, tương ứng với con trai cả. Do đó khiến cho người anh cả bị ảnh hưởng như vậy. Thứ ba, tác động vào vận thế của con cháu có những thể hiện cụ thể trong các khía cạnh khác nhau. Phong thuỷ đối với phần mộ của tổ tiên ảnh hưởng trực tiếp đến con cái, bao gồm hầu như tất cả các khía cạnh của cuộc sống như các vấn đề về tài vận, hôn nhân, con cái, sức khỏe, làm quan, v.v…
(Ảnh: Monkey Business)
Về hôn nhân
Nếu các ngôi mộ được xây dựng trong vùng đất cô quả, thì cuộc hôn nhân của con cái sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Lấy ví dụ một trường hợp như vậy: Gia đình nọ có hai con trai đã hơn ba mươi tuổi, nhưng đều chưa kiếm được vợ, người trong nhà đều rất lo lắng. Một vị thầy phong thủy đã đi khảo sát ngôi mộ tổ tiên của gia đình họ và phát hiện ra nó nằm ở vùng đất cô quả, vì vậy đã giúp họ chọn một vùng đất địa cát hơn. Sau khi di chuyển mộ chưa đầy một năm thì liền được song hỷ.
Về con cái
Con cái nhiều hay ít, có tiền đồ hay không đều có thể được dự đoán từ phong thủy của ngôi mộ của gia tiên. Vấn đề về thọ mệnh Thọ mệnh tốt xấu, dài ngắn của con cái trong gia tộc đều sớm có thể phản ánh từ phong thuỷ phần mộ gia tiên.
Về tài vận
Tài vận của con người tùy thuộc vào ngày giờ sinh bát tự của họ. Nhưng phong thủy có thể thật sự thay đổi vận thế của người đó. Ví dụ, nếu một người trong số mệnh định là triệu phú thì nhất định sẽ không thể mệnh định là triệu phú thì nhất định sẽ không thể nghèo, nhưng cụ thể, trong tương lai họ sẽ có bao nhiêu tiền? Nếu áp dụng phong thủy âm trạch, dù họ không có được một triệu đô la, thì cũng cho phép họ đạt được 990.000 đô la.
Theo NTDTV
My My biên dịch
"Điềm báo diệt vong" đã sớm rơi xuống đầu các Hoàng đế vãn Thanh?
Nguyễn Nhung (Tổng hợp) |
Liên tiếp ba đời Hoàng đế cuối cùng của Thanh triều đều không có lấy một mụn con. Đây phải chăng là điềm báo về sự diệt vong dành cho triều đại phong kiến cuối cùng ở Trung Quốc?
Bị kịch không con nối dõi của các Hoàng đế cuối triều Thanh
Vua Đồng Trị của Thanh triều chết khi mới tròn 21 tuổi, không để lại bất cứ đứa con nào. Nhiều người nói rằng, khi Đồng Trị chết, Hoàng hậu là A Lỗ Đắc đã mang thai đứa con của Đồng Trị nhưng bị Từ Hy ép chết.
Thực tế, đây chỉ là truyền thuyết, dã sử lưu truyền trong dân gian, chưa có bất cứ bằng chứng nào được tìm thấy trong các bộ chính sử.
Các Hoàng tử trong hậu cung Thanh triều hầu hết đều đã sinh hoạt tình dục trước khi kết hôn. Việc các Hoàng đế trước khi lập hoàng hậu đã con đàn cháu đống là chuyện không hề hiếm.
Vì vậy, Đồng Trị không phải ngoại lệ. Chưa hết, hôn lễ của Đồng Trị với hoàng hậu A Lỗ Đắc được cử hành vào năm Đồng Trị thứ 11, tức năm 1872. Ba năm sau đó, ông ta qua đời.
Nếu như bỏ qua tập tục “ăn cơm trước kẻng” của các vị hoàng tử Thanh Triều, chỉ tính từ ngày chính thức có hoàng hậu cho tới khi chết, Đồng Trị cũng có hơn 2 năm chung sống với các phi tần và mỹ nữ trong hậu cung.
Tuy nhiên, cho tận tới khi Đồng Trị chết vẫn không có bất cứ ghi chép nào về việc ông vua này có con.
Sau khi Đồng Trị chết, Quang Tự được đưa lên ngôi. Quang Tự có một hoàng hậu, hai quý phi và xung quanh còn hàng ngàn những cung nữ xinh đẹp ở mọi lứa tuổi.
Quang Tự kết hôn vào năm Quang Tự thứ 14, tức năm 1888, tới năm Quang Tự thứ 24 thì bị Từ Hy giam cầm ở Doanh Đài, thời gian trị vì kéo dài suốt 10 năm.
Mặc dù về chính trị, quyền lực hoàn toàn do Từ Hy nắm giữ, Quang Tự chỉ là một con rối bị giật dây, tuy nhiên, về cuộc sống hôn nhân thì Quang Tự thoải mái và tự do hơn Đồng Trị rất nhiều.
Sử sách đều ghi chép, cuộc sống hôn nhân giữa Quang Tự và người ái thiếp rất được sủng ái là Trân Phi rất hạnh phúc. Tuy nhiên, Trân phi cũng không giúp Quang Tự sinh được đứa con nối dõi nào.
Vua Đồng Trị của nhà Thanh.
Năm 1898, sau chính biến Mậu Tuất, Quang Tự bị Từ Hy giam cầm ở Doanh Đài trong suốt 10 năm cho tới tận khi chết. Tuy nhiên, trong thời gian này hoàng hậu Hiệp Hách Na La Thị cũng bị bắt phải đi theo để hầu hạ Quang Tự.
Vị Hoàng đế bù nhìn này sống ở Hàm Nguyên Điện còn Hoàng hậu ở Ỷ Hương Điện ở ngay đối diện. Vì Hiệp Hách Na La đã vào cung đã mấy chục năm nên về cơ bản Quang Tự không có nhiều hứng thú.
Tuy nhiên, điều đó không hề có nghĩa Quang Tự không bao giờ sủng hạnh hoàng hậu.
Thêm nữa, thời gian ở với nhau ở Doanh Đài kéo dài suốt mười năm, khi đó, Quang Tự lại mới hơn 20 tuổi, khó có thể nói là hai người lại không có chuyện ân ái vợ chồng.
Song điều bất hạnh là, sau 10 năm bị giam ở Doanh Đài với cuộc sống thiếu ăn, thiếu mặc, đến khi qua đời vào năm 38 tuổi, vị vua này vẫn không có người nối dõi.
Quang Tự, các phi tần cho tới cả Từ Hy Thái hậu đều hy vọng ông có một hoàng tử để nối dõi hoặc thậm chí một cô công chúa cũng tốt, thế nhưng bao nhiêu hy vọng cuối cùng đều trở thành tuyệt vọng. Bi kịch của dòng họ Ái Tân Giác La không chỉ dừng lại ở đó.
Câu chuyện của Phổ Nghi, người kế thừa ngai vàng của Quang Tự còn thê thảm hơn.
Lên ngôi từ khi hai tuổi và chết vào năm 61 tuổi, kết hôn với tổng cộng 5 người vợ khác nhau trong suốt cuộc đời, thế nhưng vị Hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc cũng không hề có con nối dõi.
Hẳn rất nhiều người từng nghe câu chuyện chính tay Phổ Nghi đã ra lệnh giết chết đứa trẻ sơ sinh do hoàng hậu Uyển Dung sinh ra.
Tuy nhiên, những sử liệu mới nhất đã chứng minh rằng, đứa trẻ được hoàng hậu Uyển Dung sinh ra là kết quả của một cuộc ngoại tình chứ không phải là con đẻ của Phổ Nghi.
Và nó cũng là lý do Phổ Nghi căm giận tới mức giết chết đứa trẻ này ngay khi nó vừa chào đời không bao lâu.
Cũng ở ngôi Hoàng đế sở hữu nhiều thê thiếp phi tần, thế nhưng cả Đồng Trị, Quang Tự và Phổ Nghi lại hoàn toàn khác hẳn với những tổ tiên “con đàn cháu đống của mình”. Điều này thực sự khiến người đời sau khó hiểu.
Uẩn khúc nằm ở đâu?
Nhiều người thậm chí còn cho rằng, có khi nào các sử gia, sống trong thời đại có quá nhiều biến động và quyền lực vốn không phải nằm trong tay những ông vua mà là bà thái hậu khiến người ta phần nào “sao nhãng” việc ghi chép về vấn đề này?
Trên thực tế, mặc dù là một dân tộc từ thiểu số, nhưng với thời gian thống trị Trung Nguyên kéo dài hơn 200 năm, quan niệm “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” của người Hán đã ăn rất sâu vào văn hóa của người Mãn.
Vì vậy, việc Hoàng đế có con ấy là một điều đại phúc của cả đất nước, là yếu tố quan trọng tạo nên sự tôn nghiêm của chính Hoàng đế.
Nếu như không có Hoàng tử nào trưởng thành thì ngay cả các Hoàng tử chết khi còn nhỏ, thậm chí là một Công chúa mắc bệnh mà chết các sử gia cũng không bao giờ được phép bỏ qua.
Vậy rốt cuộc việc ba vị Hoàng đế cuối cùng của vương triều Mãn Thanh liên tiếp gặp cảnh tuyệt tự có căn nguyên từ đâu?
Người ta đã dành không ít thời gian để tìm lời giải cho câu hỏi hóc búa này để rồi thất vọng. Việc tìm kiếm trong kho chính sử nhà Thanh không đem lại nhiều kết quả.
Nguyên nhân là vì, Đồng Trị và Quang Tự đều qua đời khá sớm, các sử gia lúc ấy lại không dám ghi lại một cách quá chi tiết về câu chuyện “tế nhị” này.
Vua Phổ Nghi của nhà Thanh.
Với Phổ Nghi, vị vua cuối cùng của triều Mãn Thanh lên ngôi lúc 2 tuổi và chỉ 4 năm sau đó đã “kết thúc nhiệm kỳ”, chuyện phòng the trở thành một vấn đề cá nhân và khó ai có thể nắm chắc được ngoại trừ chính bản thân ông ta.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng, căn nguyên việc cả ba vị Hoàng đế cuối cùng của triều Thanh tuyệt tự rất có thể bắt nguồn từ phong tục hôn nhân của dân tộc Mãn Thanh.
Theo phong tục hôn nhân của người Mãn Thanh, sau khi chồng chết, người vợ được phép “đi bước nữa” với em trai của chồng mình, thậm chí là có thể lấy con trai hoặc cháu. Phong tục này đã dẫn đến tình trạng loạn luân nghiêm trọng.
Vua Quang Tự của triều Thanh.
Sau khi nhà Thanh tiến vào Trung Nguyên, lật đổ nhà Minh và bắt đầu chịu ảnh hưởng của những quan niệm văn hóa của người Hán, việc hôn nhân giữa những người có họ hàng thân thuộc trong hoàng tộc Mãn Thanh mới dần bị hạn chế.
Thời Khang Hy, Gia Khánh đều có quy định những người có họ Ái Tân Giác La, những người là con cháu của hoàng hậu, quý phi đều được miễn trong các đợt tuyển mỹ nữ vào hậu cung của Hoàng đế.
Tuy nhiên, quy định vẫn là quy định, còn thực tế việc hôn nhân cận huyết trong hoàng tộc triều Thanh vẫn tồn tại.
Thuận Trị lấy chị gái của Đồng Quốc Duy làm vợ, người này sau đó đã sinh ra hoàng tử thứ 3, tức Hoàng đế Khang Hy sau này. Tuy nhiên, sau đó, Khang Hy lại lấy con gái của Đồng Quốc Duy làm vợ, người này chính là Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu.
Một người em gái của Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu cũng được gả cho Khang Hy và được phong làm quý phi. Như vậy, Khang Hy lấy cùng lúc hai chị em ruột, thành ra Đồng Quốc Duy vừa là cậu lại vừa là bố vợ của Khang Hy.
Đến những năm cuối triều Thanh, Quang Tự Đế cùng lúc lấy cả hai cô con gái của quan Thị lang Trường Tự làm vợ, hai người này lần lượt được phong làm Cẩn Tần và Trân Tần. Những cuộc hôn nhân kiểu như vậy hoàn toàn không hề ít trong hoàng tộc Mãn Thanh.
Bộ tộc Nữ chân thời kỳ đầu chỉ có khoảng 30 ngàn người, trong khi đó, các tộc người Mông Cổ đã có tới hơn 400 nghìn quân thiết kỵ.
Với một bộ tộc yếu ớt như người Mãn muốn mở rộng lãnh thổ, xây dựng bá nghiệp thì việc liên kết với các tộc Mông Cổ là một hành động cực kỳ thông minh.
Để củng cố liên minh này, Không các Đại hãn của nước Kim (giai đoạn đầu nhà Thanh) cho tới các Hoàng đế Đại Thanh, các vương công quý tộc đều lấy con gái bộ tộc Mông Cổ làm vợ.
Ngược lại, họ đem những người con gái của mình gả cho những người quý tộc của các bộ lạc Mông Cổ.
Tuy nhiên, việc tăng cường sự liên minh này thông qua hôn nhân khiến quan hệ hôn nhân giữa hai tộc người này ngày càng trở nên phức tạp, nhiều trường hợp rơi vào hoàn cảnh hôn nhân cận huyết, thậm chí là loạn luân.
Và đây chính là nguồn gốc, căn nguyên đã “hủy diệt” hoàng thất Thanh triều về sau này.
Tỉ lệ con cái Hoàng đế Thanh triều chết yểu đáng giật mình
Thống kê của các sử gia chỉ ra rằng, năng lực sinh dục của các Hoàng đế triều Thanh, tính từ Hoàng Thái Cực càng ngày càng tệ hại, tỉ lệ những hoàng tử và công chúa chết yểu ngày càng tăng lên.
Cho tới ba đời vua cuối cùng của vương triều này, gần như họ không còn khả năng sinh dục nữa.
Theo những gì sử sách còn ghi lại, Hoàng Thái Cực thọ 51, những phi tần được biên kê một cách chính thức gồm 15 người. 15 người này sinh cho Hoàng Thái Cực tổng cộng 11 con trai và 14 con gái.
Trong số 11 người con trai thì những người sống qua tuổi 16 chỉ có 7 người, 4 người còn lại chết từ khi còn rất nhỏ. Trong khi đó, 14 người con gái thì có 13 người trưởng thành qua tuổi 16. Như vậy, tỷ lệ những người con chết khi còn nhỏ của Hoàng Thái Cực là 20%.
Đến đời vua Thuận Trị, chết vì bệnh đậu mùa, thọ 24 tuổi, có thể coi là diện “đoản mệnh”. Tuy nhiên, những phi tử có danh phận chính thức của ông lên tới 18 người. Họ sinh cho Thuận Trị tới 8 người con trai và 6 người con gái.
Tuy nhiên, 4 người con trai và 2 người con gái của họ chết từ khi còn nhỏ. Trong số 4 người sống qua tuổi 16 thì chỉ có một người là lấy được chồng, còn lại đều chết rất sớm. Theo tính toán, tỷ lệ những người con chết khi còn nhỏ của Thuận Trị lên tới 43%.
Vị Hoàng đế thứ 3 của Thanh triều chính là Hoàng đế Khang Hy. Đây là vị Hoàng đế có nhiều phi tần nhất, nhiều con nhất và cũng là vị vua sống thọ nhất, trị vị lâu nhất trong lịch sử triều Thanh. Khang Hy sống tới năm 68 tuổi mới mất.
Theo thống kê chưa đầy đủ, ông vua này có tới 55 người vợ, sinh được 35 người con trai và 20 người con gái.
Trong đó số người con trai sống đến tuổi trưởng thành, nhận được tước phong chỉ có 12 người, số người con gái sống qua tuổi 16 chỉ có 8 người. Tỷ lệ những người con chết yểu ở Khang Hy lên tới 51%.
Cho tới Hoàng đế thứ 7 là Đạo Quang Đế, hưởng thọ 67 tuổi, hậu phi có tới 20 người, sinh được 9 người con trai, 10 người con gái. Trong số này, có 2 người con trai chết từ khi mới sinh ra chưa được bao lâu, 4 người khác chỉ sống qua tuổi 20 một chút đều lần lượt chết yểu.
Ngoài ra, 10 người con gái thì chỉ có 5 người trưởng thành, sống qua tuổi 16. Như vậy, tỷ lệ những người con chết yểu của Đạo Quang là 37%.
Mặc dù tỷ lệ này thấp hơn so với Khang Hy hay Thuận Trị, song vẫn cao hơn rất nhiều so với Hoàng Thái Cực.
Đáng nói là, vào thời Hoàng Thái Cực, ông ta vẫn mang theo và vợ con rong ruổi ngày đêm trên chiến trường, điều kiện chăm sóc và chữa bệnh kém hơn rất nhiều so với thời của Đạo Quang.
Với người kế vị Đạo Quang là Hoàng Đế Hàm Phong, mọi chuyện càng trở nên tệ hơn.
Hàm Phong một đời phong lưu, số hậu phi có tới 19 người, tuy nhiên, ông chỉ có hai người con trai và một cô con gái. Đứa con trai đầu vừa sinh ra, chưa kịp đặt tên thì đã qua đời.
Đứa con gái chỉ sống được đúng 2 năm cũng không qua khỏi. Người duy nhất may mắn sống sót cũng chính là Hoàng đế Đồng Trị sau này.
Tuy nhiên, Hàm Phong Đế chưa phải là người tệ nhất trong các đời vua Mãn Thanh. Bởi vì sau ông, từ Đồng Trị, Tải Thuần cho tới Hoàng đế cuối cùng là Phổ Nghi đều không ai sinh được đứa con nào.
Những con số trên là minh chứng rõ nhất chứng tỏ rằng, tập tục hôn nhân quá gần gũi trong hoàng tộc Mãn Thanh đã gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sinh dục của các hoàng đế về sau.
Tuy nhiên, ngoài ảnh hưởng từ tập tục hôn nhân, việc tuyệt tự của ba đời hoàng đế cuối cùng còn phụ thuộc vào chính lối sống của ba vị hoàng đế này.
Đầu tiên là Hoàng đế Đồng Trị, ông vua ăn chơi, dâm loạn có tiếng và cũng là ông vua duy nhất được xác định là chết vì bệnh giang mai khi tuổi đời mới 21 tuổi.
Thích du hý, thích tìm của lạ chốn giang hồ nên ngay từ thời thanh niên trai trẻ, Đồng Trị đã luôn tìm tới lầu xanh để hưởng lạc. Kết cục của những lần ăn chơi trác táng đó là ông đã mắc bệnh giang mai.
Trên thực tế, nguyên nhân khiến Đồng Trị từ bỏ chốn hậu cung bạt ngàn mỹ nữ để tới chốn thanh lâu hưởng lạc là vì sự chèn ép của Từ Hy Thái hậu.
Tuy lên làm vua từ trẻ nhưng thực chất Đồng Trị không có quyền lực trong tay, vì mọi việc triều chính đã bị Từ Hy Thái Hậu thâu tóm hết.
Thậm chí cả chuyện ân ái, yêu đương của vị vua trẻ này với các Hoàng hậu, phi tần cũng bị Từ Hy bức ép. Trong hai cô gái mà hai vị Thái hậu đề cử cho chức vị Goàng hậu, nhà vua đã chọn người của Thái hậu Từ An.
Điều này khiến Từ Hy căm ghét nên bà luôn ngăn cản Đồng Trị chăn gối với Hoàng hậu, ép con trai “ân ái” với phi tần mà mình chỉ định. Chán nản, vị vua trẻ đã theo chân các thái giám ra ngoài cung tìm thú vui ở chốn lầu xanh.
Kết quả những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng với đám gái giang hồ đã khiến Đồng Trị bị mắc bệnh giang mai. Sau khi Đồng Trị qua đời, để tránh điều tiếng thị phi cho triều đình, Từ Hy Thái Hậu đã tuyên bố rằng Hoàng đế băng hà là do mắc bệnh đậu mùa.
Qua đời khi còn quá trẻ, trước đó do không động chạm thân xác nhiều với các phi tần, cung nữ nên khi Đồng Trị qua đời, vị hoàng đế này đã không để lại mụn con nào.
Không giống như Đồng Trị, Quang Tự dù cũng là một con rối trong bàn tay Từ Hy nhưng lại được vị Thái hậu này để cho tự do trong việc ân ái vợ chồng. Tuy nhiên, Quang Tự lại mắc căn bệnh di tinh khá trầm trọng nên không có khả năng sinh con.
Mặc dù không đủ dũng cảm để thừa nhận như Quang Tự, tuy nhiên, nhiều nhà sử học cho rằng, nguyên nhân khiến Phổ Nghi không có con nối dõi chính là vì ông ta mắc chứng bất lực.
Trong cuốn hồi ký của mình, Phổ Nghi có viết: “Lúc Hoàng đế Phổ Nghi mới 10 tuổi, để tránh hầu hạ vua, các thái giám tối nào cũng đẩy cung nữ vào phục vụ ông, có đến ba cô một tối."
Họ "quần" ông đến mệt lử mới để cho ông ngủ. "Hôm sau thức dậy, tôi hoa mắt chóng mặt, nhìn mặt trời và mọi thứ đều ra một màu vàng ệch”.
Cũng từ những dòng hồi ký này, mà nhiều người đã nghĩ rằng, ngay từ năm 10 tuổi, do quá mệt mỏi vì phải “phục vụ” các cung nữ nên Phổ Nghi mới sinh ra chứng… bất lực để lại hậu quả nghiêm trọng về sau.
theo Trí Thức Trẻ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét